Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cá nghe Kinh

19/01/201204:17(Xem: 6268)
Cá nghe Kinh



canghekinh7-8N


Sự nghiệt ngã của hoàn cảnh lịch sử đã khiến Việt Nam thành một nước “ăn sau, chạy dọi” trong công trình phiên dịch một Đại tạng kinh Việt Nam.

 

Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.

Chu Mạnh Trinh là khách hành hương tới Hương Sơn để hưởng thú “bầu Trời, cảnh Bụt”; nhưng thật ra là đang viếng cảnh biển xanh biến thành nương dâu đang hiện tướng trong tâm thức của chính mình.

 

Chim ríu rít cúng dường hoa trái; cá lặng lờ ngừng vẫy nghe kinh; là khi Tâm kinh biến thành Chân kinh.

 

Nguyễn Du cũng đã qua bao nhiêu trải nghiệm thăng trầm của thế sự, nhưng mãi tới khi về lại với chính mình mới tìm được Chân kinh:

 

Ngã độc Kim Cang thiên biến linh… Kim Cang vô tự thị Chân Kinh. (Nghìn lần ta đọc Kim Cang…Kim Cang thật nghĩa là trang không lời).

 

Kinh có Khế kinh, Tâm kinh và Chân kinh.

Khế kinh là những tạng kinh đã thành quy ước chung của kho tàng kinh điển nhà Phật.

Tâm kinh là những phẩm kinh trở thành trái tim, xương sống của giáo lý nhà Phật như Bát Nhã Tâm Kinh. Hoặc như kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ là tâm kinh của Tịnh Độ tông; Đại Nhật là tâm kinh của Mật tông…

Chân kinh là khi kinh không còn ở dạng hình thức ngôn từ, chữ nghĩa nào nữa. Kinh như chiếc bè đưa người qua sông.

Tới bến thì bỏ bè; sống đạo thì không còn kinh.

 

Kinh là phương tiện để đánh thức và nhắc nhở như tiếng chuông, tiếng tán. Thuộc kinh để tu hành mong đạt tới chỗ quên kinh khi kinh không còn là ý, là lời mà kinh đã tan loãng và hòa quyện thành máu thịt.Tuy nhiên, thực tế đã chỉ rõ rằng, nếu không phải là thần đồng Bồ tát hóa thân thì căn bản trước nhất là phải qua ngõ Khế kinh trước đã. Nghĩa là phải tiếp cận để hiểu và tu học “kinh thường” như một cửa ngõ khai tâm, luyện trí. Về sau, tùy theo bề dày của công phu tu tập mà tiến tới tầm cao của Tâm kinh và Chân kinh.

 

Nhớ ngày mùng một Tết, tôi không đọc kinh mà suy nghĩ vẩn vơ về kinh. Một ý nghĩ chưa thành cho tới bây giờ.

 

Sống ở phương xa, ngày đầu xuân, pha chén trà cúng Phật và ông bà, tôi không cúi đầu – đê đầu tư cố hương – như Lý Bạch ngày xưa mà ngẩng mặt nhìn bàn thờ phơ phất khói nhang; nhớ quá quê nhà đang ngon giấc nửa đêm bên kia.

 

Để tự mình chúc phúc đầu năm, tôi mở cuốn Nghi thức tụng niệm ra đọc phẩm Cầu an. Chút tỉnh giác mượt mà sớm mai đi đâu mất khi tôi đối diện với kinh. Những câu kinh Hán Việt làm đầu óc tôi mệt mề và trở nên lười biếng. Tuy không xa lạ với chữ Hán, nhưng cảm xúc nhớ quê hương làm tôi thèm nghe giọng nói chân quê của Mẹ. Tiếng Mẹ đối với đàn con tha hương cũng là “Chân kinh” vượt ra ngoài phạm trù của ngôn ngữ quy ước.

 

Thuở ấy, tôi được bà con khen vì còn nhỏ mà đã đọc thuộc lòng mấy bài kinh “Nam mô, ma ha, tô rô…” khó nhớ, khó hiểu. Miệng tôi đọc theo trơn tru nhưng trí óc thì lại mù mịt về ý nghĩa. So với bầy cá ở khe Yến nghe kinh của Chu Mạnh Trinh – trăm năm trước – thì chúng tôi – trăm năm sau – cũng chả hơn gì mấy.

 

 Rồi năm mươi năm sau, tới thế hệ con cháu chúng tôi, bầy cá nghe kinh cũng cứ vẫn còn “lửng lơ” như thế. Các bài kinh tụng đọc phổ thông trong sinh hoạt chùa viện của Phật giáo Việt Nam trong cũng như ngoài nước càng ngày càng trở nên khó hiểu đối với thế hệ trẻ vì ngôn từ Hán Việt của kinh văn đọc tụng còn quá nặng nề và thiếu thống nhất.

 

Về mặt tích cực, tuy công trình dịch thuật chưa hoàn mãn, nhưng thế hệ đàn em phải ghi nhận để trân trọng tán dương công đức của thế hệ đàn anh. Đó là một công trình tổng hợp của chư tôn thiền đức, quý thiện tri thức, cư sĩ Phật tử, học giả thân hữu và đại chúng Phật tử đã hiến dâng nhiều tâm sức vào nỗ lực phiên dịch Kinh tạng từ chữ Phạn, chữ Hán sang ngôn ngữ thuần Việt.

 

Nói đến Đại tạng kinh Phật giáo là nói đến một cánh rừng Thiền của chữ nghĩa. Chỉ mới nói đến mục lục chi tiết để liệt kê tên từng tạng và phẩm kinh không thôi thì tác phẩm dịch thuật công phu Phật Giáo Đại Tạng Kinh – Tường Tế Mục Lục của thầy Thích Chánh Lạc cũng đã dày ngót 900 trang. (Phú Lâu Na xuất bản năm 2002). Theo các bản dịch tiếng Anh, nếu phỏng tính trung bình mỗi trang có khoảng 500 chữ – kiểu chữ Times New Roman và cỡ chữ 12 – thì Đại tạng kinh Pali có khoảng 30.000 trang và Đại tạng kinh Trung Hoa có khoảng 80.000 trang (một số lượng bằng 40 lần Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa; nếu dựa vào tiêu chuẩn New King James Version). 

 

Phật giáo Trung Hoa với trên 2.000 công trình trước tác kinh luận đã nâng số lượng kinh điển Phật giáo lên 3 lần kể từ khi Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Con số này nói lên một thực tế rằng, nỗ lực cá nhân không kham nổi mà phải cần tới cả một tập thể hành giả, trí giả, dịch giả chuyên biệt mới làm nổi công việc dịch thuật và hiệu đính kinh tạng nhà Phật.

 

Đạo Phật truyền thừa vào Việt Nam đã hai nghìn năm qua. Phật giáo Việt Nam không thiếu nhân tài và các bậc danh tăng tôn túc đã dày công dịch thuật Tam tạng kinh điển. Nhưng những cuộc xâm lăng liên tục, truyền đời tàn bạo và âm mưu đồng hóa của Trung Hoa đã càn quét và vùi dập mọi nỗ lực hoàn thiện một hệ thống chữ viết Quốc âm như chữ Nôm. Nghiêm trọng nhất là Bắc thuộc lần thứ năm (1407-1427) với cuộc xâm lăng của quân Minh, gây binh kết oán suốt 20 năm, mà Nguyễn Trãi đã tuyên cáo: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa; bọn gian tà còn bán nước cầu vinh…”. Trong cuộc xâm lăng này, quân Minh đã vơ vét mọi kinh sách, tác phẩm dịch thuật và những công trình trước tác của Phật giáo Việt Nam để chở về Trung Quốc. 

 

Việt Nam tuy có sức sống độc lập cộng với tinh thần chống ngoại xâm kiên trì, dũng mãnh nên còn giữ được vốn văn hóa và tiếng nói dân tộc; nhưng vẫn không tránh khỏi thương tích đầy mình. Nền móng chữ Nôm lung lay và lụi tàn. Hệ thống chữ viết dựa theo mẫu tự La tinh xuất hiện muộn màng do nhu cầu của các nhà truyền đạo phương Tây chứ không phải xuất phát từ tri thức và máu thịt của dân tộc như hệ thống chữ Hán, chữ Nhật, chữ Đại Hàn. “Bóng đè” của chữ Hán Việt vẫn ngự trị nặng nề trên hầu hết những lĩnh vực tư tưởng, giáo dục và xã hội Việt Nam. Kinh điển chữ Hán trở thành phương tiện chiếm lĩnh trong sinh hoạt đạo Phật. Hệ lụy của Hán tạng sâu đậm tới nỗi khuynh hướng sính chữ Hán, đọc tụng kinh chữ Hán, viết sớ điệp bằng chữ Hán, xem chữ Hán như một “linh tự” trong chùa chiền vẫn còn thâm căn cố đế tới ngày nay. Nhiều nỗ lực dịch thuật, Việt hóa nghi thức, thực hành tụng đọc kinh kệ bằng tiếng Việt, chữ Việt gặp nhiều trở ngại. Nguyên nhân chính của sự trở ngại này là vì giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia vẫn còn mang mặc cảm chữ nghĩa “thông Nho, thạo Hán” đầy kiến chấp không còn thích hợp với sinh hoạt tu hành.

 

 

Đại tạng kinh Việt Nam

 

Sự nghiệt ngã của hoàn cảnh lịch sử đã khiến Việt Nam thành một nước “ăn sau, chạy dọi” trong công trình phiên dịch một Đại tạng kinh Việt Nam.

 

Chữ viết và ngôn ngữ tuy cũng chỉ là phương tiện văn hóa, nhưng đấy cũng chính là niềm tự hào dân tộc mà nước Việt Nam đã bị Trung Quốc giày xéo, vùi dập, phá tan, lấy đi, tráo lại qua những thời kỳ Bắc thuộc kéo dài cả ngàn năm. Việt Nam tránh được mối nhục đồng hóa, mối họa mất nước nhưng phải trả giá là sự lụi tàn của chữ Nôm hay một hệ thống chữ viết thuần túy Quốc âm tương tự. Và riêng Phật giáo Việt Nam bị “bóng đè” của Kinh tạng chữ Hán nặng nề đến nỗi đã hơn hai nghìn năm qua mà vẫn chưa có được một tạng Kinh Việt Nam thuần Việt.

 

Một vấn đề thuộc phạm trù văn hóa Phật giáo được đặt ra là một bản dịch hoàn chỉnh cho Đại tạng kinh Việt Nam sẽ dựa trên căn bản Đại tạng kinh nào. Các Đại tạng kinh hoàn thiện nhất của Phật giáo hiện nay được bảo lưu theo các hình thức ngôn ngữ:

 

Tiếng Phạn (Samskrta) là một cổ ngữ của Ấn Độ. Riêng trong ngôn ngữ truyền thống của đạo Phật, hình thức văn tự thường có hai hình thái:

Phật giáo Nguyên thủy dùng Kinh tạng Pali (còn được hiểu như là Nam Phạn). Điển hình ở các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt.

 

Phật giáo Phát triển, còn gọi là Đại thừa hay Bắc truyền dùng Kinh tạng Sanskrit (còn được hiểu như là Bắc Phạn).

 

Bên cạnh đó, Hán tạng và Tây Tạng tạng lại được nhánh Phật giáo Đại thừa, Bắc truyền có khuynh hướng chọn làm chuẩn mực. Điển hình là ở các nước Trung Hoa, Tây Tạng, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn.

 

Với tinh thần “tùy duyên bất biến” của tinh hoa truyền thừa giáo lý nhà Phật, hầu như các Đại tạng kinh đều không khác nhau về triết lý và tín lý cơ bản của nhà Phật. Có rất nhiều điểm tương đồng và nhiều thuật ngữ có thể hoán chuyển cho nhau giữa Pali và Sanskrit. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu Tam tạng kinh điển nhà Phật theo khuynh hướng bảo thủ thường chọn Pali tạng làm chuẩn mực phiên dịch và so sánh.

 

Với Phật giáo Việt Nam ngày nay, một Đại tạng kinh Việt Nam là niềm mong mỏi chung. Nhiều công trình dịch thuật và hiệu đính đã và đang tiến hành đồng thời với sự tinh lọc và bổ sung cho nhau. Các công trình dịch thuật và hoàn thiện một Đại tạng kinh bằng tiếng Việt thuần túy đã khởi động và tiến hành từ mấy chục năm qua với nhiều phương tiện và quy mô khác nhau.

 

Trong nước, đầu năm 1990 (Canh Ngọ), Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam được thành lập. Đây là sự phối hợp trên một quy mô lớn với sự tham gia của quý tu sĩ, cư sĩ và trí thức có năng lực đáng tin cậy trong lĩnh vực ngôn ngữ, Phật học. Chỉ trong vòng 1 năm, cuối năm 1991, hai bộ kinh đầu tiên – Trường A Hàm dày 1.200 trang, Trường Bộ kinh dày 1.360 trang – được phiên dịch, hiệu đính và công bố. Qua năm 1992, hai bộ kinh Trung A Hàm (3 tập) và Trung bộ kinh (3 tập) lần lượt được ấn hành để đặt nền móng cơ bản cho công tác hình thành Đại tạng kinh Việt Nam. Và những năm tiếp theo, những bộ kinh phiên dịch lần lượt được ấn hành và công bố. Trong vòng 20 năm qua, một “tập đại thành” chung quyết tương đối hoàn chỉnh của Đại tạng Việt Nam vẫn đang trên đà hoàn thiện.

 

Ngoài nước, năm 2004, kẻ viết bài này được tham gia Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam từ Hán tạng. Đây là một dự án sử dụng phần mềm của những chương trình chuyên dịch tinh tế và hiện đại của vi tính vào công trình phiên dịch. Tất cả 2.372 bộ kinh trong Hán tạng được phiên âm và lược dịch bằng máy vi tính trong vòng 28 giờ. Các bộ kinh ngắn chỉ cần dưới 10 giây đồng hồ. Các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm (80 quyển) dịch trong 11 phút, bộ Đại Trí Độ luận 17 phút, và bộ Đại Bát Nhã (600 quyển) 50 phút.

 

Năm 2006, các Tăng Ni Việt Nam du học ở Sri Lanka cũng xây dựng một dự án thực hiện Đại tạng kinh song ngữ (Pali – Việt Nam) tổng cộng 58 tập. Đây cũng là một công trình lâu dài vì Đại tạng kinh Pali-Tích Lan hay Pali-Thái Lan cũng phải mất thời gian phiên dịch trung bình là 30 năm.

 

Dịch thuật khác với sáng tác vì công việc chuyển ngữ đòi hỏi phải có trình độ ngoại ngữ vững vàng, kiến thức chuyên khoa phong phú và sự am hiểu văn hóa và ngữ cảnh của cả hai ngôn ngữ dịch và được dịch.

 

Từ trong khái niệm sâu xa nhất của ngôn từ Hán Việt, kinh Phật được xem như là Thơ (Thi = Ngôn + Tự). Ngôn ngữ thơ là sự cô đọng tinh túy của ý và lời. Như một bài thơ ngắn nhất trong những bài thơ là bài tứ tuyệt Phong kiều dạ bạc của Trương Kế đời Đường. Nó đã trở thành tuyệt phẩm lưu danh thiên cổ. 

 

Bài Bát Nhã Tâm kinh của Huyền Trang là bài kinh ngắn nhất trong những bài kinh của Phật giáo. Từ 600 cuốn của bộ Đại Bát Nhã, Huyền Trang đã rút lại chỉ còn 260 chữ. Nhưng Bát Nhã Tâm kinh đã trở thành trái tim tuệ giác của đạo Phật. Thế giới Phật giáo xưa nay chưa có bài kinh nào ngắn mà hơn được về triết lý uyên áo, ngôn từ thâm diệu và âm hưởng trác tuyệt bằng bài kinh này. Phần Việt dịch cho kinh Bát Nhã đến nay đã có trên 15 bản dịch của các bậc danh tăng và học giả trong cũng như ngoài nước, nhưng chưa có bản dịch nào được xem là đạt chuẩn mực về sự chuyển ngữ. 

 

Cái gút thắt nổi cộm chung của các công trình dịch Bát Nhã Tâm kinh chưa đạt vẫn là khái niệm về từ ngữ thiếu đồng bộ và tương ứng giữa Hán Việt và thuần Việt. Ví dụ trong muôn một là từ Hán Việt có 4 chữ khác nghĩa tách bạch, rạch ròi như: “không”, “vô”, “bất”, “phi” thì tiếng thuần Việt chỉ có một chữ “không…” tương ứng. Khi chuyển ngữ, người dịch khó tránh khỏi giới hạn liễu nghĩa của từ ngữ. Trong lúc đó thì “Không” là một khái niệm cốt tủy của Bát Nhã Tâm kinh, nên biết bao dịch giả tài hoa và có thẩm quyển về mặt tư tưởng và chữ nghĩa nhà Phật như quý thầy Thích Minh Châu, Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh… cũng chưa vượt trội ra ngoài giới hạn của ngôn ngữ!

 

Bởi vậy, trong lĩnh vực nhân văn mà đặc biệt là ngôn từ, ngữ văn thì máy móc chỉ là phương tiện phụ trợ chứ không thể thay thế hẳn được con người. Khi cái máy vi tính làm công việc chuyển ngữ trong vòng 28 tiếng đồng hồ thì phải cần tới một đội ngũ của hàng trăm đầu óc chuyên môn, tinh lọc và hiệu đính trong một thời gian không thể dưới vài ba mươi năm. Đã hơn 10 năm qua và liên tục tới hiện tại, có từ 50 đến 100 Tăng Ni, học giả… đông nhất là ở chùa Châu Lâm và Trung tâm Liễu Quán Huế đang tập trung vào công tác hiệu đính và hoàn thiện Đại tạng kinh Việt Nam sau khi Đại tạng kinh Hán Việt được dịch sang thuần Việt bằng chương trình chuyển ngữ vi tính.

 

Ước mong sao các nhóm thực hiện Đại tạng kinh Việt Nam sẽ kết hợp lại với nhau để cùng chung tài, chung sức thực hiện một Đại tạng kinh bằng tiếng Việt thuần túy có tầm cỡ quốc gia và quốc tế cho những thế hệ mai sau. Có thể nói Đại tạng kinh Việt Nam là một “Giấc Mộng Lớn” cho ước mơ thành hiện thực.

 

Thiền môn nhật tụng

 

Trong khi các bậc tôn đức đang lo chuyện “trời biển” về việc hoàn thiện một Đại tạng kinh Việt Nam thì những bài kinh văn đang được dùng để đọc tụng hàng ngày trong các chùa viện Phật giáo Việt Nam – trong cũng như ngoài nước – đang trải qua một thời kỳ tù đọng “xưa bày, nay làm”. Đó là nghi thức tụng niệm phổ thông đang lâm vào cảnh chìm nổi của ngôn từ, lễ nhạc, nghi thức, pháp cụ và pháp khí… khiến phương tiện hành lễ thành ra bất nhất. Thậm chí, có nơi “tùy nghi phương tiện” theo nhu cầu và cảm hứng riêng. Cụ thể nhất là những câu kinh phiên âm Hán Việt đã trở nên “tối hù” vì đại chúng và nhất là tuổi trẻ phải đọc tụng hay nghe xướng âm mà không hiểu nghĩa.

 

Như phần dẫn nhập ở trên đã trình bày, kẻ viết những dòng này cũng như các bạn đạo cùng thế hệ hay cao niên hơn, đã trải qua gần hết đời mình làm “cá nghe kinh” với những nghi thức tụng niệm “Hán-Nôm bất nhất” như thế. Sự nhập nhằng giữa các bài kinh Hán Việt và thuần Việt trong quá nhiều cuốn Nghi thức tụng niệm được giới cầu phước cầu tài cúng dường, thu băng, in ra và phát hành miễn phí ở các chùa như bươm bướm. Tất cả đều thiếu sự chỉ đạo của Hội đồng Chứng minh từ phía các bậc tôn túc nên càng làm cho quần chúng Phật tử bị lạc vào những mớ kinh văn hỗn độn.

 

Trực tiếp hơn là trong các khóa lễ, các vị chủ lễ xướng tụng “câu Hán hoán câu Việt” theo cảm tính chọn lựa cá nhân đã dần dần biến Nghi thức tụng niệm hành lễ hàng ngày của đạo Phật khi tỏ khi mờ, mỗi nơi một khác. Những bài kinh đáng lẽ mang một ý nghĩa trong sáng, cao sâu hóa ra trở thành khúc mắc và bí hiểm gần với hình thức bùa chú, ấn quyết hơn là “nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa”.

 

Từ bản chất và tác dụng, kinh không phải là để phụng thờ hay đọc tụng ngân nga nhằm thỏa mãn cảm xúc cầu khấn kiểu “thầy cúng qua đường” dùng lối đọc tụng kinh chú để bắt ma, trừ tà, ếm quỷ. Kinh là một phương tiện thiện xảo để chuyển hóa tâm linh. Muốn được vậy, ý kinh phải rõ ràng, lời kinh phải trong sáng mà hình thái lý tưởng nhất là bằng chính ngôn ngữ ruột (mẹ đẻ) của người đọc tụng.

 

Đối với hàng Phật tử sơ cơ, nhất là đối với thế hệ tuổi trẻ hướng Phật, sự thống nhất về một nghi thức “Thiền môn nhật tụng” thuần tiếng Việt đầy đủ tính trong sáng, dễ hiểu, đại chúng đang trở thành một nhu cầu cấp thiết trong sinh hoạt tu học của Phật giáo Việt Nam. Có thể nói một cách đầy biểu cảm theo chữ nghĩa của Tản Đà rằng, đó là một “Giấc Mộng Con” của người Phật tử hiện nay. Phương tiện dồi dào và tiềm năng phong phú của Phật giáo Việt Nam hiện nay có thừa công lực để biến giấc mộng con đó thành hiện thực. Hy vọng rằng, đây sẽ là khởi điểm cho bất cứ một ý hướng chấn hưng – hiện đại hóa, cải cách, ứng dụng… – Phật giáo nào trong một hoàn cảnh rất “nhạy cảm” toàn cầu hiện nay.

 

Khi hỏi về nguyên nhân nào đưa tới sự kết hợp hài hòa giữa Thần đạo và Phật giáo để tạo ra tính dân tộc đầy bản lĩnh của người Nhật đã được thể hiện qua dòng lịch sử đầy tai trời ách nước của xứ này làm cho thế giới khâm phục, thầy Seigen Yamaoka, sư trưởng chứng minh của Hiệp hội Phật giáo châu Mỹ (Buddhist Churches of America) ở San Francisco trả lời: “Nhật Bản đoàn kết trước khi hành động nên thường đúng lúc. Nơi khác hành động trước khi đoàn kết nên thường muộn màng”.

 

Nhân gian ai lại chẳng thích đúng lúc; chẳng có ai thích muộn màng. Câu nói giản đơn mà dư âm thâm sâu như một công án, thật đáng cho người Phật tử Việt Nam hôm nay và mai sau chắp tay suy gẫm.

 

Theo Tạp chí Văn hóa Phật giáo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2013(Xem: 8329)
Tôi đang huân tập một đức tính: Hễ có ai chửi tôi, nhục mạ, bôi lọ tôi…tôi sẽ nhẫn nhục không trả lời. Nếu buộc phải trả lời tôi sẽ dùng lời lẽ ôn hòa, không dùng lời thô tục, hung dữ…để trình bày rõ sự việc, để mọi người được biết…mà không làm tổn thương đến người đang công kích hay thù hận tôi. Đức Phật dạy rằng “Muôn loài chúng sinh đều bình đẳng”. Nếu con hổ có thể gầm, con sư tử có thể rống…thì con chim cũng có thể hát ca, con suối có thể reo, thậm chí loài côn trùng nhỏ bé cũng có quyền cất lên tiếng nỉ non giữa canh khuya. Ai cũng có quyền cất lên tiếng nói mà không một ai có quyền ngăn cản miễn sao tiếng nói đó không làm tổn hại tới người khác, không làm xáo trộn sự an vui của cộng đồng.
27/07/2013(Xem: 9183)
Đi chùa lễ Phật, ở nhà ăn chay, tụng kinh niệm Phật, ra ngoài đời hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho xã hội là sinh hoạt nền tảng cần có của một Phật tử chân chính. Những hoạt động trên có tác dụng rất lớn khiến bản thân thanh tịnh, tâm hồn hướng thượng, gia đình hạnh phúc, vun trồng cội phúc cho mình và cho con cháu. Song đó chỉ là những điều kiện cần nhưng chưa đủ
27/07/2013(Xem: 9553)
Mẹ tôi là một góa phụ đã bảy mươi mốt tuổi, người đã sống một mình kể từ khi Ba tôi mất cách đây mười chín năm. Sau khi Ba tôi qua đời, tôi đã di chuyển 2500 dặm để đến California, nơi tôi bắt đầu xây dựng mái ấm gia đình và lập nghiệp ở đây. Khi tôi quay về lại quê nhà cách đây năm năm, tôi tự hứa với chính mình sẽ dành nhiều thời gian cho Mẹ. Nhưng vì bận rộn công việc và ba đứa con, tôi đã không có thời gian nhiều để thăm Mẹ ngoài những dịp nghỉ lễ hay gặp mặt gia đình.
26/07/2013(Xem: 19849)
Thuyết Luân Hồi & Phật Giáo Tây Phương (Rebirth and The Western Buddhism), nguyên tác Anh ngữ của Martin Wilson, Việt dịch: Thích Nguyên Tạng
26/07/2013(Xem: 7757)
Bác đi tu từ bao giờ tôi không biết. Khi tôi có hiểu biết thì đã thấy bác là một ông thầy chùa. Khi tôi hiểu biết thêm một chút nữa thì cả gia đình bác đã có một ngôi chùa riêng. Trước đó bác tụng kinh gõ mõ trong ngôi nhà thờ của dòng họ mà bác là người vai trưởng được cai quản. Tôi phải nói là bác tôi vừa là một ông thầy chùa nhà quê, vừa… mù chữ. Có lẽ ông không biết một chữ a, b, c nào cả. Nhưng ông biết “chữ nho”. Bác tụng niệm ê a bằng “chữ nho”.
26/07/2013(Xem: 10578)
Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy, vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ giới và thọ giới ở nước ta.
25/07/2013(Xem: 8864)
Năm nay là năm 2013, đây là năm kỷ niệm chu niên lần thứ 30 của Gia Đình Phật Tử Pháp Bảo tại thành phố Sydney, tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi. Những khuôn mặt của 30 năm về trước và những con người theo suốt chiều dài lịch sử vừa qua, đến nay chắc chắn đã theo luật Vô Thường biến đổi khá nhiều. Nếu làm con tính nhẩm, các em Oanh Vũ 6 tuổi của thời 1983, thì năm nay cũng đã thành một thanh niên, thanh nữ 36 tuổi
25/07/2013(Xem: 9151)
Vươn đến một đời sống thành công và hạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻ và hạnh phúc.
25/07/2013(Xem: 8458)
Khổng Tử: Trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử Thời Đông Chu bên Tàu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ ... Thầy trò Khổng Tử trên đường từ Lỗ sang Tề cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng. May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm.
24/07/2013(Xem: 13934)
Ca sĩ có Pháp danh Minh Tú chỉ mới bước qua tuổi đời 26 vừa vĩnh biệt xả báo thân hôm qua (21/07/2013) tại T.p Hồ Chí Minh. Wanbi Tuấn Anh được công chúng và trong giới nghệ thuật luôn tâm đắc là người “nghệ sĩ hiền hậu”. Wanbi cũng đã từng phát tâm quy y Tam bảo và tìm hiểu giáo lý Phật pháp lúc còn đang trẻ. “Người tu học Phật pháp phải thấy rõ điều này để biết cách áp dụng lời Phật dạy vào đời sống sinh hoạt của chính mình, để mỗi ngày bớt tham, sân, si, thăng tiến trên đường đạo”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]