Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cá nghe Kinh

19/01/201204:17(Xem: 6744)
Cá nghe Kinh



canghekinh7-8N


Sự nghiệt ngã của hoàn cảnh lịch sử đã khiến Việt Nam thành một nước “ăn sau, chạy dọi” trong công trình phiên dịch một Đại tạng kinh Việt Nam.

 

Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.

Chu Mạnh Trinh là khách hành hương tới Hương Sơn để hưởng thú “bầu Trời, cảnh Bụt”; nhưng thật ra là đang viếng cảnh biển xanh biến thành nương dâu đang hiện tướng trong tâm thức của chính mình.

 

Chim ríu rít cúng dường hoa trái; cá lặng lờ ngừng vẫy nghe kinh; là khi Tâm kinh biến thành Chân kinh.

 

Nguyễn Du cũng đã qua bao nhiêu trải nghiệm thăng trầm của thế sự, nhưng mãi tới khi về lại với chính mình mới tìm được Chân kinh:

 

Ngã độc Kim Cang thiên biến linh… Kim Cang vô tự thị Chân Kinh. (Nghìn lần ta đọc Kim Cang…Kim Cang thật nghĩa là trang không lời).

 

Kinh có Khế kinh, Tâm kinh và Chân kinh.

Khế kinh là những tạng kinh đã thành quy ước chung của kho tàng kinh điển nhà Phật.

Tâm kinh là những phẩm kinh trở thành trái tim, xương sống của giáo lý nhà Phật như Bát Nhã Tâm Kinh. Hoặc như kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ là tâm kinh của Tịnh Độ tông; Đại Nhật là tâm kinh của Mật tông…

Chân kinh là khi kinh không còn ở dạng hình thức ngôn từ, chữ nghĩa nào nữa. Kinh như chiếc bè đưa người qua sông.

Tới bến thì bỏ bè; sống đạo thì không còn kinh.

 

Kinh là phương tiện để đánh thức và nhắc nhở như tiếng chuông, tiếng tán. Thuộc kinh để tu hành mong đạt tới chỗ quên kinh khi kinh không còn là ý, là lời mà kinh đã tan loãng và hòa quyện thành máu thịt.Tuy nhiên, thực tế đã chỉ rõ rằng, nếu không phải là thần đồng Bồ tát hóa thân thì căn bản trước nhất là phải qua ngõ Khế kinh trước đã. Nghĩa là phải tiếp cận để hiểu và tu học “kinh thường” như một cửa ngõ khai tâm, luyện trí. Về sau, tùy theo bề dày của công phu tu tập mà tiến tới tầm cao của Tâm kinh và Chân kinh.

 

Nhớ ngày mùng một Tết, tôi không đọc kinh mà suy nghĩ vẩn vơ về kinh. Một ý nghĩ chưa thành cho tới bây giờ.

 

Sống ở phương xa, ngày đầu xuân, pha chén trà cúng Phật và ông bà, tôi không cúi đầu – đê đầu tư cố hương – như Lý Bạch ngày xưa mà ngẩng mặt nhìn bàn thờ phơ phất khói nhang; nhớ quá quê nhà đang ngon giấc nửa đêm bên kia.

 

Để tự mình chúc phúc đầu năm, tôi mở cuốn Nghi thức tụng niệm ra đọc phẩm Cầu an. Chút tỉnh giác mượt mà sớm mai đi đâu mất khi tôi đối diện với kinh. Những câu kinh Hán Việt làm đầu óc tôi mệt mề và trở nên lười biếng. Tuy không xa lạ với chữ Hán, nhưng cảm xúc nhớ quê hương làm tôi thèm nghe giọng nói chân quê của Mẹ. Tiếng Mẹ đối với đàn con tha hương cũng là “Chân kinh” vượt ra ngoài phạm trù của ngôn ngữ quy ước.

 

Thuở ấy, tôi được bà con khen vì còn nhỏ mà đã đọc thuộc lòng mấy bài kinh “Nam mô, ma ha, tô rô…” khó nhớ, khó hiểu. Miệng tôi đọc theo trơn tru nhưng trí óc thì lại mù mịt về ý nghĩa. So với bầy cá ở khe Yến nghe kinh của Chu Mạnh Trinh – trăm năm trước – thì chúng tôi – trăm năm sau – cũng chả hơn gì mấy.

 

 Rồi năm mươi năm sau, tới thế hệ con cháu chúng tôi, bầy cá nghe kinh cũng cứ vẫn còn “lửng lơ” như thế. Các bài kinh tụng đọc phổ thông trong sinh hoạt chùa viện của Phật giáo Việt Nam trong cũng như ngoài nước càng ngày càng trở nên khó hiểu đối với thế hệ trẻ vì ngôn từ Hán Việt của kinh văn đọc tụng còn quá nặng nề và thiếu thống nhất.

 

Về mặt tích cực, tuy công trình dịch thuật chưa hoàn mãn, nhưng thế hệ đàn em phải ghi nhận để trân trọng tán dương công đức của thế hệ đàn anh. Đó là một công trình tổng hợp của chư tôn thiền đức, quý thiện tri thức, cư sĩ Phật tử, học giả thân hữu và đại chúng Phật tử đã hiến dâng nhiều tâm sức vào nỗ lực phiên dịch Kinh tạng từ chữ Phạn, chữ Hán sang ngôn ngữ thuần Việt.

 

Nói đến Đại tạng kinh Phật giáo là nói đến một cánh rừng Thiền của chữ nghĩa. Chỉ mới nói đến mục lục chi tiết để liệt kê tên từng tạng và phẩm kinh không thôi thì tác phẩm dịch thuật công phu Phật Giáo Đại Tạng Kinh – Tường Tế Mục Lục của thầy Thích Chánh Lạc cũng đã dày ngót 900 trang. (Phú Lâu Na xuất bản năm 2002). Theo các bản dịch tiếng Anh, nếu phỏng tính trung bình mỗi trang có khoảng 500 chữ – kiểu chữ Times New Roman và cỡ chữ 12 – thì Đại tạng kinh Pali có khoảng 30.000 trang và Đại tạng kinh Trung Hoa có khoảng 80.000 trang (một số lượng bằng 40 lần Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa; nếu dựa vào tiêu chuẩn New King James Version). 

 

Phật giáo Trung Hoa với trên 2.000 công trình trước tác kinh luận đã nâng số lượng kinh điển Phật giáo lên 3 lần kể từ khi Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Con số này nói lên một thực tế rằng, nỗ lực cá nhân không kham nổi mà phải cần tới cả một tập thể hành giả, trí giả, dịch giả chuyên biệt mới làm nổi công việc dịch thuật và hiệu đính kinh tạng nhà Phật.

 

Đạo Phật truyền thừa vào Việt Nam đã hai nghìn năm qua. Phật giáo Việt Nam không thiếu nhân tài và các bậc danh tăng tôn túc đã dày công dịch thuật Tam tạng kinh điển. Nhưng những cuộc xâm lăng liên tục, truyền đời tàn bạo và âm mưu đồng hóa của Trung Hoa đã càn quét và vùi dập mọi nỗ lực hoàn thiện một hệ thống chữ viết Quốc âm như chữ Nôm. Nghiêm trọng nhất là Bắc thuộc lần thứ năm (1407-1427) với cuộc xâm lăng của quân Minh, gây binh kết oán suốt 20 năm, mà Nguyễn Trãi đã tuyên cáo: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa; bọn gian tà còn bán nước cầu vinh…”. Trong cuộc xâm lăng này, quân Minh đã vơ vét mọi kinh sách, tác phẩm dịch thuật và những công trình trước tác của Phật giáo Việt Nam để chở về Trung Quốc. 

 

Việt Nam tuy có sức sống độc lập cộng với tinh thần chống ngoại xâm kiên trì, dũng mãnh nên còn giữ được vốn văn hóa và tiếng nói dân tộc; nhưng vẫn không tránh khỏi thương tích đầy mình. Nền móng chữ Nôm lung lay và lụi tàn. Hệ thống chữ viết dựa theo mẫu tự La tinh xuất hiện muộn màng do nhu cầu của các nhà truyền đạo phương Tây chứ không phải xuất phát từ tri thức và máu thịt của dân tộc như hệ thống chữ Hán, chữ Nhật, chữ Đại Hàn. “Bóng đè” của chữ Hán Việt vẫn ngự trị nặng nề trên hầu hết những lĩnh vực tư tưởng, giáo dục và xã hội Việt Nam. Kinh điển chữ Hán trở thành phương tiện chiếm lĩnh trong sinh hoạt đạo Phật. Hệ lụy của Hán tạng sâu đậm tới nỗi khuynh hướng sính chữ Hán, đọc tụng kinh chữ Hán, viết sớ điệp bằng chữ Hán, xem chữ Hán như một “linh tự” trong chùa chiền vẫn còn thâm căn cố đế tới ngày nay. Nhiều nỗ lực dịch thuật, Việt hóa nghi thức, thực hành tụng đọc kinh kệ bằng tiếng Việt, chữ Việt gặp nhiều trở ngại. Nguyên nhân chính của sự trở ngại này là vì giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia vẫn còn mang mặc cảm chữ nghĩa “thông Nho, thạo Hán” đầy kiến chấp không còn thích hợp với sinh hoạt tu hành.

 

 

Đại tạng kinh Việt Nam

 

Sự nghiệt ngã của hoàn cảnh lịch sử đã khiến Việt Nam thành một nước “ăn sau, chạy dọi” trong công trình phiên dịch một Đại tạng kinh Việt Nam.

 

Chữ viết và ngôn ngữ tuy cũng chỉ là phương tiện văn hóa, nhưng đấy cũng chính là niềm tự hào dân tộc mà nước Việt Nam đã bị Trung Quốc giày xéo, vùi dập, phá tan, lấy đi, tráo lại qua những thời kỳ Bắc thuộc kéo dài cả ngàn năm. Việt Nam tránh được mối nhục đồng hóa, mối họa mất nước nhưng phải trả giá là sự lụi tàn của chữ Nôm hay một hệ thống chữ viết thuần túy Quốc âm tương tự. Và riêng Phật giáo Việt Nam bị “bóng đè” của Kinh tạng chữ Hán nặng nề đến nỗi đã hơn hai nghìn năm qua mà vẫn chưa có được một tạng Kinh Việt Nam thuần Việt.

 

Một vấn đề thuộc phạm trù văn hóa Phật giáo được đặt ra là một bản dịch hoàn chỉnh cho Đại tạng kinh Việt Nam sẽ dựa trên căn bản Đại tạng kinh nào. Các Đại tạng kinh hoàn thiện nhất của Phật giáo hiện nay được bảo lưu theo các hình thức ngôn ngữ:

 

Tiếng Phạn (Samskrta) là một cổ ngữ của Ấn Độ. Riêng trong ngôn ngữ truyền thống của đạo Phật, hình thức văn tự thường có hai hình thái:

Phật giáo Nguyên thủy dùng Kinh tạng Pali (còn được hiểu như là Nam Phạn). Điển hình ở các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt.

 

Phật giáo Phát triển, còn gọi là Đại thừa hay Bắc truyền dùng Kinh tạng Sanskrit (còn được hiểu như là Bắc Phạn).

 

Bên cạnh đó, Hán tạng và Tây Tạng tạng lại được nhánh Phật giáo Đại thừa, Bắc truyền có khuynh hướng chọn làm chuẩn mực. Điển hình là ở các nước Trung Hoa, Tây Tạng, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn.

 

Với tinh thần “tùy duyên bất biến” của tinh hoa truyền thừa giáo lý nhà Phật, hầu như các Đại tạng kinh đều không khác nhau về triết lý và tín lý cơ bản của nhà Phật. Có rất nhiều điểm tương đồng và nhiều thuật ngữ có thể hoán chuyển cho nhau giữa Pali và Sanskrit. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu Tam tạng kinh điển nhà Phật theo khuynh hướng bảo thủ thường chọn Pali tạng làm chuẩn mực phiên dịch và so sánh.

 

Với Phật giáo Việt Nam ngày nay, một Đại tạng kinh Việt Nam là niềm mong mỏi chung. Nhiều công trình dịch thuật và hiệu đính đã và đang tiến hành đồng thời với sự tinh lọc và bổ sung cho nhau. Các công trình dịch thuật và hoàn thiện một Đại tạng kinh bằng tiếng Việt thuần túy đã khởi động và tiến hành từ mấy chục năm qua với nhiều phương tiện và quy mô khác nhau.

 

Trong nước, đầu năm 1990 (Canh Ngọ), Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam được thành lập. Đây là sự phối hợp trên một quy mô lớn với sự tham gia của quý tu sĩ, cư sĩ và trí thức có năng lực đáng tin cậy trong lĩnh vực ngôn ngữ, Phật học. Chỉ trong vòng 1 năm, cuối năm 1991, hai bộ kinh đầu tiên – Trường A Hàm dày 1.200 trang, Trường Bộ kinh dày 1.360 trang – được phiên dịch, hiệu đính và công bố. Qua năm 1992, hai bộ kinh Trung A Hàm (3 tập) và Trung bộ kinh (3 tập) lần lượt được ấn hành để đặt nền móng cơ bản cho công tác hình thành Đại tạng kinh Việt Nam. Và những năm tiếp theo, những bộ kinh phiên dịch lần lượt được ấn hành và công bố. Trong vòng 20 năm qua, một “tập đại thành” chung quyết tương đối hoàn chỉnh của Đại tạng Việt Nam vẫn đang trên đà hoàn thiện.

 

Ngoài nước, năm 2004, kẻ viết bài này được tham gia Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam từ Hán tạng. Đây là một dự án sử dụng phần mềm của những chương trình chuyên dịch tinh tế và hiện đại của vi tính vào công trình phiên dịch. Tất cả 2.372 bộ kinh trong Hán tạng được phiên âm và lược dịch bằng máy vi tính trong vòng 28 giờ. Các bộ kinh ngắn chỉ cần dưới 10 giây đồng hồ. Các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm (80 quyển) dịch trong 11 phút, bộ Đại Trí Độ luận 17 phút, và bộ Đại Bát Nhã (600 quyển) 50 phút.

 

Năm 2006, các Tăng Ni Việt Nam du học ở Sri Lanka cũng xây dựng một dự án thực hiện Đại tạng kinh song ngữ (Pali – Việt Nam) tổng cộng 58 tập. Đây cũng là một công trình lâu dài vì Đại tạng kinh Pali-Tích Lan hay Pali-Thái Lan cũng phải mất thời gian phiên dịch trung bình là 30 năm.

 

Dịch thuật khác với sáng tác vì công việc chuyển ngữ đòi hỏi phải có trình độ ngoại ngữ vững vàng, kiến thức chuyên khoa phong phú và sự am hiểu văn hóa và ngữ cảnh của cả hai ngôn ngữ dịch và được dịch.

 

Từ trong khái niệm sâu xa nhất của ngôn từ Hán Việt, kinh Phật được xem như là Thơ (Thi = Ngôn + Tự). Ngôn ngữ thơ là sự cô đọng tinh túy của ý và lời. Như một bài thơ ngắn nhất trong những bài thơ là bài tứ tuyệt Phong kiều dạ bạc của Trương Kế đời Đường. Nó đã trở thành tuyệt phẩm lưu danh thiên cổ. 

 

Bài Bát Nhã Tâm kinh của Huyền Trang là bài kinh ngắn nhất trong những bài kinh của Phật giáo. Từ 600 cuốn của bộ Đại Bát Nhã, Huyền Trang đã rút lại chỉ còn 260 chữ. Nhưng Bát Nhã Tâm kinh đã trở thành trái tim tuệ giác của đạo Phật. Thế giới Phật giáo xưa nay chưa có bài kinh nào ngắn mà hơn được về triết lý uyên áo, ngôn từ thâm diệu và âm hưởng trác tuyệt bằng bài kinh này. Phần Việt dịch cho kinh Bát Nhã đến nay đã có trên 15 bản dịch của các bậc danh tăng và học giả trong cũng như ngoài nước, nhưng chưa có bản dịch nào được xem là đạt chuẩn mực về sự chuyển ngữ. 

 

Cái gút thắt nổi cộm chung của các công trình dịch Bát Nhã Tâm kinh chưa đạt vẫn là khái niệm về từ ngữ thiếu đồng bộ và tương ứng giữa Hán Việt và thuần Việt. Ví dụ trong muôn một là từ Hán Việt có 4 chữ khác nghĩa tách bạch, rạch ròi như: “không”, “vô”, “bất”, “phi” thì tiếng thuần Việt chỉ có một chữ “không…” tương ứng. Khi chuyển ngữ, người dịch khó tránh khỏi giới hạn liễu nghĩa của từ ngữ. Trong lúc đó thì “Không” là một khái niệm cốt tủy của Bát Nhã Tâm kinh, nên biết bao dịch giả tài hoa và có thẩm quyển về mặt tư tưởng và chữ nghĩa nhà Phật như quý thầy Thích Minh Châu, Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh… cũng chưa vượt trội ra ngoài giới hạn của ngôn ngữ!

 

Bởi vậy, trong lĩnh vực nhân văn mà đặc biệt là ngôn từ, ngữ văn thì máy móc chỉ là phương tiện phụ trợ chứ không thể thay thế hẳn được con người. Khi cái máy vi tính làm công việc chuyển ngữ trong vòng 28 tiếng đồng hồ thì phải cần tới một đội ngũ của hàng trăm đầu óc chuyên môn, tinh lọc và hiệu đính trong một thời gian không thể dưới vài ba mươi năm. Đã hơn 10 năm qua và liên tục tới hiện tại, có từ 50 đến 100 Tăng Ni, học giả… đông nhất là ở chùa Châu Lâm và Trung tâm Liễu Quán Huế đang tập trung vào công tác hiệu đính và hoàn thiện Đại tạng kinh Việt Nam sau khi Đại tạng kinh Hán Việt được dịch sang thuần Việt bằng chương trình chuyển ngữ vi tính.

 

Ước mong sao các nhóm thực hiện Đại tạng kinh Việt Nam sẽ kết hợp lại với nhau để cùng chung tài, chung sức thực hiện một Đại tạng kinh bằng tiếng Việt thuần túy có tầm cỡ quốc gia và quốc tế cho những thế hệ mai sau. Có thể nói Đại tạng kinh Việt Nam là một “Giấc Mộng Lớn” cho ước mơ thành hiện thực.

 

Thiền môn nhật tụng

 

Trong khi các bậc tôn đức đang lo chuyện “trời biển” về việc hoàn thiện một Đại tạng kinh Việt Nam thì những bài kinh văn đang được dùng để đọc tụng hàng ngày trong các chùa viện Phật giáo Việt Nam – trong cũng như ngoài nước – đang trải qua một thời kỳ tù đọng “xưa bày, nay làm”. Đó là nghi thức tụng niệm phổ thông đang lâm vào cảnh chìm nổi của ngôn từ, lễ nhạc, nghi thức, pháp cụ và pháp khí… khiến phương tiện hành lễ thành ra bất nhất. Thậm chí, có nơi “tùy nghi phương tiện” theo nhu cầu và cảm hứng riêng. Cụ thể nhất là những câu kinh phiên âm Hán Việt đã trở nên “tối hù” vì đại chúng và nhất là tuổi trẻ phải đọc tụng hay nghe xướng âm mà không hiểu nghĩa.

 

Như phần dẫn nhập ở trên đã trình bày, kẻ viết những dòng này cũng như các bạn đạo cùng thế hệ hay cao niên hơn, đã trải qua gần hết đời mình làm “cá nghe kinh” với những nghi thức tụng niệm “Hán-Nôm bất nhất” như thế. Sự nhập nhằng giữa các bài kinh Hán Việt và thuần Việt trong quá nhiều cuốn Nghi thức tụng niệm được giới cầu phước cầu tài cúng dường, thu băng, in ra và phát hành miễn phí ở các chùa như bươm bướm. Tất cả đều thiếu sự chỉ đạo của Hội đồng Chứng minh từ phía các bậc tôn túc nên càng làm cho quần chúng Phật tử bị lạc vào những mớ kinh văn hỗn độn.

 

Trực tiếp hơn là trong các khóa lễ, các vị chủ lễ xướng tụng “câu Hán hoán câu Việt” theo cảm tính chọn lựa cá nhân đã dần dần biến Nghi thức tụng niệm hành lễ hàng ngày của đạo Phật khi tỏ khi mờ, mỗi nơi một khác. Những bài kinh đáng lẽ mang một ý nghĩa trong sáng, cao sâu hóa ra trở thành khúc mắc và bí hiểm gần với hình thức bùa chú, ấn quyết hơn là “nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa”.

 

Từ bản chất và tác dụng, kinh không phải là để phụng thờ hay đọc tụng ngân nga nhằm thỏa mãn cảm xúc cầu khấn kiểu “thầy cúng qua đường” dùng lối đọc tụng kinh chú để bắt ma, trừ tà, ếm quỷ. Kinh là một phương tiện thiện xảo để chuyển hóa tâm linh. Muốn được vậy, ý kinh phải rõ ràng, lời kinh phải trong sáng mà hình thái lý tưởng nhất là bằng chính ngôn ngữ ruột (mẹ đẻ) của người đọc tụng.

 

Đối với hàng Phật tử sơ cơ, nhất là đối với thế hệ tuổi trẻ hướng Phật, sự thống nhất về một nghi thức “Thiền môn nhật tụng” thuần tiếng Việt đầy đủ tính trong sáng, dễ hiểu, đại chúng đang trở thành một nhu cầu cấp thiết trong sinh hoạt tu học của Phật giáo Việt Nam. Có thể nói một cách đầy biểu cảm theo chữ nghĩa của Tản Đà rằng, đó là một “Giấc Mộng Con” của người Phật tử hiện nay. Phương tiện dồi dào và tiềm năng phong phú của Phật giáo Việt Nam hiện nay có thừa công lực để biến giấc mộng con đó thành hiện thực. Hy vọng rằng, đây sẽ là khởi điểm cho bất cứ một ý hướng chấn hưng – hiện đại hóa, cải cách, ứng dụng… – Phật giáo nào trong một hoàn cảnh rất “nhạy cảm” toàn cầu hiện nay.

 

Khi hỏi về nguyên nhân nào đưa tới sự kết hợp hài hòa giữa Thần đạo và Phật giáo để tạo ra tính dân tộc đầy bản lĩnh của người Nhật đã được thể hiện qua dòng lịch sử đầy tai trời ách nước của xứ này làm cho thế giới khâm phục, thầy Seigen Yamaoka, sư trưởng chứng minh của Hiệp hội Phật giáo châu Mỹ (Buddhist Churches of America) ở San Francisco trả lời: “Nhật Bản đoàn kết trước khi hành động nên thường đúng lúc. Nơi khác hành động trước khi đoàn kết nên thường muộn màng”.

 

Nhân gian ai lại chẳng thích đúng lúc; chẳng có ai thích muộn màng. Câu nói giản đơn mà dư âm thâm sâu như một công án, thật đáng cho người Phật tử Việt Nam hôm nay và mai sau chắp tay suy gẫm.

 

Theo Tạp chí Văn hóa Phật giáo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2016(Xem: 7317)
Lần nọ của nawm xưa, chúng tôi tham gia 1 khóa tu tại Packchong, Thái Lan. Theo quy định của bất cứ khóa tu nào, nam ở riêng và nữ ở riêng, bất kể là vợ chồng hay mẹ con. Tôi ở cùng 1 người đàn ông phương tây trong 1 căn phòng cho khoảng hơn chục Phật tử. Người đàn ông này khá ít nói, rất nhẹ nhàng, tham gia nghiêm túc các thời khóa.
05/11/2016(Xem: 9233)
Chúng ta đều biết, giáo dục là công trình quan trọng hàng đầu cho mọi nền phát triển của xã hội văn minh. Giáo dục xây dựng tính nhân văn cho một quốc gia và làm thành nhân cách sống con người cao quý, thiện lành, đẹp đẽ và hạnh phúc cho từng cá nhân trên hành tinh này. Đạo phật đã có một bề dầy 26 thế kỷ của công trình giáo dục,
05/11/2016(Xem: 8508)
Hồi còn nhỏ, còn trẻ tôi ít khi nghe đến từ ly dị, cả một cái làng Trại Mộ, cả một xóm Cỏ May (nơi tôi sinh trưởng và lớn lên) không hề nghe đến cặp vợ chồng nào ly dị. Thỉnh thoảng vợ chồng các chị gái có lục đục kình cãi thì mẹ tôi khuyên:"Vợ chồng cũng giống như chén bát trong sóng, khi đụng đến thì phải khua thôi, tụi con mỗi đứa nhịn nhau một chút thì sẽ yên cửa yên nhà". Mẹ khuyên chừng đó thôi, anh chị nghe theo và gia đình không còn xào xáo nữa.
03/11/2016(Xem: 15162)
Chấp ngã là từ nhà Phật. Chữ Ngã, từ Hán我 thuộc bộ qua戈. Qua戈có nghĩa là cái mác; dụng cụ của người lính lúc xưa. Ngã 我 gồm chữ qua戈 bên phải và chữ thiên bên trái 千. Ta là tất cả, trong ta luôn có nghìn con dao, cái mác. Cái ngã là ghê vậy đó. Chiến tranh thù hận cũng vì cái ngã.
01/11/2016(Xem: 7287)
Báo xuân Việt Báo Tết Bính Thân 2016, bài Huỳnh Kim Quang, “50 Năm Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ” có ghi lại việc Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đã thu nhận nhiều đệ tử người Mỹ và trở thành vị Sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Bài viết mới của Lệ Hoa Wilson kể về chuyến hành hương tới ngôi chùa mang tên “Thiên Ân”, do một đệ tử người Mỹ của Hòa Thượng Thiên Ân sáng lập trong hoang mạc. Lệ Hoa Wilson là một Phật tử, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, pháp danh Tâm Tinh Cần, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ. Ông bà có văn phòng Di Trú-Thuế Vụ tại Long Beach.
01/11/2016(Xem: 13200)
Ngày xửa ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi đời hiểm ác nên đã tìm đến cửa Phật, quy y Phật giáo. Tuy rằng thân đã xuất gia, nhập không môn, nhưng trong tâm ông vẫn quyến luyến ngoại giới
30/10/2016(Xem: 10199)
Là người đồng sáng lập Sen Việt (Phó CT HĐQT Sen Việt/Tổng GĐ Picas Art), cùng đạo diễn Điệp Văn (ĐV) tạo ra những tác phẩm Phật giáo & cho cộng đồng có giá trị, lý do nào Lâm Ánh Ngọc (LAN) đã bất ngờ kết thúc hợp tác với Đạo diễn ĐV & rút khỏi Sen Việt? - Dạ. Như thông tin N có đưa trên mạng cộng đồng, N kết thúc hợp tác vào tháng 5, nhưng vì vài lý do nên chưa thể thông báo đến mọi người sớm cho đến tận tháng 10. Tất cả được diễn giải ngắn gọn bằng câu "hết duyên do quan điểm và định hướng công việc không còn tiếng nói chung" là đủ ý nghĩa ạ, không thể giải thích gì thêm sẽ dài dòng rối rắm. N nghĩ rằng mỗi người sẽ có cảm nhận riêng cụ thể và tinh tế để hiểu cái hết duyên của LAN và đạo diễn ĐV là gì theo thời gian thôi.
28/10/2016(Xem: 6808)
Đối với người cư sĩ, ai cũng muốn có sự tiếp nối của mình tương lai. Bởi ước muốn tiếp nối, nên trong mỗi người luôn có hạt giống về tình dục và chức năng sinh sản. Tình dục và sinh sản là chức năng không thể phủ nhận. Mình không nên phủ nhận, nhưng mình cũng không nên nhầm lẫn tình dục với tình yêu. Tình dục có thể đem lại cảm giác vui sướng và gắn kết giữa hai người nếu ở đó có mặt tình yêu. Tình dục có thể trở thành tình yêu và ngược lại tình yêu là nguồn gốc nảy sinh tình dục. Cho nên có thể nói yêu rồi thương, hoặc thương rồi mới yêu là vì vậy.
25/10/2016(Xem: 16273)
Con về trời đổ mưa to - Thầy trao con một chiếc Ô che đầu- Con không cần trả lại đâu! - Giữ mà che lúc dãi dầu nắng sương..
24/10/2016(Xem: 6590)
Nhân ngày sinh 90 của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, rất nhiều người Phật tử và không Phật tử đã làm nhiều việc tốt đẹp để cầu nguyện cho Thiền Sư thọ mạng dài lâu với bốn chúng đệ tử và mọi người thương mến Thiền Sư ( xin được thay từ Thiền Sư bằng Sư Ông cho thân mật). Tôi cũng xin được đóng góp một vài kỷ niệm với Sư Ông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]