Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tùy Hỷ Công Đức - Pháp Của Người Học Phật Tu Tập Trong Khen Chê

01/11/201101:11(Xem: 7508)
Tùy Hỷ Công Đức - Pháp Của Người Học Phật Tu Tập Trong Khen Chê

TÙY HỶ CÔNG ĐỨC
PHÁP CỦA NGƯỜI HỌC PHẬT TU TẬP TRONG KHEN CHÊ

Thích Tâm Mãn

Thươngkhen, ghét chê trong thế gian là việc hết sức bình thường, thích thì khen, không thích thì chê, đố kỵ hơn thua, ganh ghét chê bai. Khen chê là tánh nết có hầu hết trong tất cả mọi người sống trên trần thế, cho nên trong dân gian có câu “Khi thương thì củ ấu cũng tròn, khi ghét thì bồ hòn cũng méo”. Thế mới biết, nghe việc đó tốt chưa nên vội tin vào lời khen mà phải xem lại, cho việc kia xấu nên xét lại ngọn ngành rồi hãy nói. Ông bà mình dạy “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”.

Khen trong Đạo Phật gọi là tán thán hay là “Tùy Hỷ Công Đức”. Chê trong Đạo Phật gọi hủy báng hay còn gọi là “Chướng Ngăn Thánh Đạo”.Vì sao vậy? Tán thán tùy hỷ theo việc làm lành của người khác thì mình được tăng phước, gieo duyên với nghiệp lành, còn ngược lại nếu hủy báng chê bai việc làm thiện của người khác thì chính mình bị tổn phước, kết duyên với nghiệp dữ, xa lìa Phật Đạo, chướng ngại trong việc tu hành.

Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh dạy:“TrongMười Đại Nguyện Vương của Bồ Tát Phổ Hiền, điều nguyện thứ năm là “Tùy hỷ công đức” dễ thực hành lắm, lấy công đức của người làm công đức của mình. Đây là Pháp tu thong thả nhẹ nhàng. Đối với các việc lành của người, chúng ta không vui mừng lại còn ngăn cản chê trách thì tổn phước.Còn tùy hỷ (vui mừng theo) thì Phước đức tăng thêm...”.

Hòa Thượng thượng Tuyên hạ Hóa dạy tùy hỷ công đức là:“Tùy”nghĩa là thuận theo hay theo cùng, “hỷ” là hoan hỷ, “công” là công đã lập được, “đức” là đức hạnh đã làm. Tùy hỷ cũng có thể gọi là người khácvui theo những công đức mình đã làm, cũng có thể nói là mình vui theo những công đức mà người khác đã làm... Tùy hỷ công đức đã bao hàm cả việc làm hết thảy điều thiện. Tất cả những công đức lành, quý vị nên tùyhỷ; tất cả những việc tội nghiệt lỗi lầm, quý vị không nên làm”.

tuyhy4Trong Từ Bi Thuỷ Sámcó nói về những nghiệp làm chướng ngăn Thánh Đạo: “...hoặcdo ba nghiệp gây nên tội lỗi, hoặc vì nội tâm vọng tưởng, hoặc vì ngoạicảnh mê hoặc sinh lòng nhiễm trước. Như thế cho đến mười điều ác nghiệp, tám vạn bốn ngàn trần lao. Những tội lỗi ấy tuy nhiều vô lượng, nhưng không ngoài ba điều: phiền não, nghiệp chướng, quả báo. Ba ác phápnày là pháp chướng ngại thánh đạo, ngăn trở quả báo tốt đẹp nhân thiên”.

Pháp Tùy Hỷ Công Đức thứ nhất là Pháp tựmình dùng thân, khẩu, ý tùy hỷ tán thán khen ngợi việc lành của người khác và tự mình phát tâm làm những việc thiện khiến cho người khác tùy hỷ theo, đây là hạnh lành của Pháp Tùy Hỷ Công Đức, pháp này là pháp khó làm nhất trong các hạnh lành của pháp tùy hỷ.

Cổ Đức dạy:“Người khi khen chê phải biết, khen cái gì và chê cái gì”, vínhư tự mình đã làm được việc đó, thấy người khác cũng làm như vậy nhưnglàm chưa đủ, làm chưa đúng, làm chưa hết tâm và làm chưa đạt thì nên chê, chê trong tâm niệm quan tâm giúp đỡ, chê trong tâm niệm muốn giúp họ thành tựu việc họ làm, hết tâm chỉ vẽ cho người kia biết được nơi chổchưa đạt để rút kinh nghiệm làm cho tốt hơn. Chê như vậy gọi là người biết chê.

Nếu biết chê như vậy thì nên phát nguyện. Trong Lương Hoàng Sám dạy:“Ðệtử chúng con tên… từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọinơi, nếu có chúng sanh nào nghe được âm thanh của chúng con, tâm liền được an ổn, diệt trừ tội cấu, được Đà la ni, giải thoát tam muội, đầy đủđại nhẫn, biện tài vô cùng, vào pháp vân địa, thành bậc Chánh giác”.

Người không biết chê là người chưa làm qua việc đó, cũng không hiểu được việc, nghe người khác chê cũng chê theo, hoặc là việc đó mình làm không được, tự thấy mình thua kém hơn người, sanh tâm đố kị ghen ghét, chê bai không căn cứ, nói cho người khác buồn phiền thối tâm. Chê như vậy là người không biết chê.

Chê bai người khác là nghiệp của miệng lưỡi, nghiệp này gây ra nhiều tội rất nặng.Trong Thủy Sám dạy phải sám hối:“Lạitừ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói thêu dệt (ỷ ngữ) tạo ra bao nhiêu tội lỗi; dùng âm từ hoa mỹ, văn chương bóng bẩy, xuyên tạc sai lầm, trang sức điều trái quấy... hoặc phóng túng tư thù, làm văn thêu dệt lên tội, để người đời sau tin cho là thật.... Những tội nghiệp do ỷ ngữ gây ra như thế, vô lượng vô biên, ngày nay chúng con đều xin chí thành sám hối”.

Người biết khen là người đã tự mình làm qua những việc thiện rồi, mà không thành tựu, do nhân duyên chưa đủ, hay là công đức chưa thành, học thức chưa đủ uyên thâm, nay thấy người khác có thể làm thành tựu được những việc đó, sanh tâm cung kính hoan hỷ, học theo, khen ngợi tán thán việc làm của người ấy, khiến cho họ sanh tâm hoan hỷ, phấn chấn tinh thần, tiếp tục làm tốt hơn nhữngviệc đã làm. Khen như vậy gọi là người biết khen.

Nếu biết khen như vậy thì trong Lương Hoàng Sám dạy nên Phát Nguyện:“Ðệtử chúng con tên… từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi nơi, đối với hết thảy chúng sanh tâm thường bình đẳng như hư không, khen chê không động lòng; oán thân như nhau, đi sâu vào tâm địa rộng lớn, học trí huệ chư Phật, xem chúng sanh đều như La Hầu La đầy đủ nghiệp thập trú, xa lìa tâm chấp có, xả bỏ tâm chấp không, thường tu theo trung đạo...”.

Ngườikhông biết khen là người chưa từng làm qua việc đó, tự mình cũng chẳng hiểu việc, vì lợi ích của chính mình mà khen, nịnh bợ người khác mà khen, ám hại người khác mà khen, xu hướng tà kiến mà khen, bất chấp việclàm của người mình khen là đúng hay sai, tốt hay xấu, chỉ vì mục đích của riêng mình nên khen ngợi, khiến cho người làm không biết được sự thật của mình làm là đúng hay sai, đôi khi chỉ vì lời khen của mình, dẫnhọ đi đến tự thân làm những việc sai trái mà không biết cứ mãi miết làm, gây ra hậu hoạn không cùng, người khen như vậy là người không biết khen.

Khen chê là nghiệp của miệng lưỡi, nghiệp này gây ra nhiều tội rất nặng, trong Thủy Sám dạy phải sám hối:“Lạitừ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói hai lưỡi gây ra bao nhiêu tội lỗi; khen trước mặt, chê sau lưng, xảo trá trăm chiều, tới người kia nói chuyện người này, tới người này nói chuyện người kia, chỉ biết lợi mình,không nhìn hại đến kẻ khác, dèm siểm để ly gián vua tôi, vu oan huỷ nhục người lương thiện, để cho vua tôi nghi kị nhau, cha con bất hoà nhau, để vợ chồng bỏ nhau, họ hàng thân thích xa nhau, làm mất ơn thầy trò, dứt đường lui tới bạn bè... Nghiệp nói hai lưỡi gây ra tội lỗi vô lượng vô biên như thế, ngày nay chúng con chí thành hướng về mười phươngchư Phật, Tôn pháp, Thánh chúng, đều xin giãi bày cầu ai sám hối”.

Tùy hỷ công đức cẩn thận trong khen chê là một trong những Pháp môn rất khó tu tập trong Đạo Phật. Tùy hỷ công đức là khi tự mình đã biết làm việc tốt, nên làm thế nào để khiến cho người khác cũng phát tâm làm theo, thì việc làm của mình mới đúng là tốt, nếu như có người khen chê thì phải tự mình xét lại chính mình còn chổ nào chưa đúng, nếu đã đúng rồi, thì xem xét lại là người biết khen hay không biết khen chê, nếu như là biết thì nên học hỏi, còn nếu là không thì phải phát tâm hoan hỷ vì những gì mà người kia chưa có đủ duyên để thành tựu, nếu được như vậy là tự mình là người đang tu tập Pháp tùy hỷ công đức.

Thấy người khác làm việc tốt, ta nên biết hoan hỷ tán thán khen ngợi, làm cho người đang làm việc tốt sanh tâm hoan hỷ, nếu như họ cần đến sự giúp đỡ của mình, thì nên phát nguyệnđem sức của mình, nhân duyên của mình trợ giúp cho người đang làm việc tốt, nếu được như vậy đó là tự mình đang tu Pháp tùy hỷ công đức của người khác.

Tùy hỷ công đức trong khen chê của Đạo Phật là phương pháp làm cho người khi khen chê không bị tổn phước, không bị thọ nghiệp báo, là pháp xưng tán Đại thừa, là hạnh tán dương Tam Bảo. Nếu là người biết khen, biết chê thì người ấy vĩnh viễn không tạo các nghiệp ác của thân khẩu ý, Tam nghiệp luôn thanh tịnh, khỏi dọa vào Tam đồ, đầy đủ các duyên nhập Phật Đạo tràng.

Tùy hỷ công đức, không những chỉ tùy hỷ công đức của chính mình mà phải nên phát tâm tùy hỷ theo công đức của người khác, đây là chân lý căn bản tự giác, giác tha của Phật Đạo, khi đã đạt đến cảnh giới tùy hỷ này, thì bước tiếp theo là phải tu tập pháp tùy hỷ theo tất cả công đức lành của hết thảy chúng sanh trong Pháp giới, để viên thành giác hạnh viên mãn, thành tựu Bồ Đề Đạo. Nếu có thể thành tựu được ba pháp tùy hỷ này, thì tự mình có thể biết chắc rằng ngày đến được đạo tràng của Chư Phật không còn bao xa.

Thích Tâm Mãn
Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com- www.minhthanhtu.com- Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú - Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/08/2020(Xem: 7235)
Trên lộ trình tu học, tìm hiểu Phật pháp, và tự đặt mình vào cương vị một người con Phật, đôi khi sự tự hào không chỉ hỗ trợ tinh thần vững tiến mà còn giúp thêm cho ý chí hanh thông, vượt qua nhiều chướng duyên, trong lý tưởng mình đã chọn. Trong thời đại bùng nổ thông tin đa chiều như hiện nay, kiến thức và sự tự hào ấy được chắp thêm nhiều đôi cánh thêm bay cao, bay xa.
28/08/2020(Xem: 7378)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô Dươc Sư Lưu Ly Quang Vương Phật Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Kính Bái Bạch Thượng Tọa Thích Tâm Phương, Tổng Vụ Trưởng TV Từ Thiện Xã Hội GHPGVNTNHN tại UĐL-TTL, Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức, Thay mặt Ban Hướng Dẫn Gia Đinh Phật Tủ Việt Nam tại Úc Đại Lợi, chúng con cung kính cung thỉnh Thầy hoan hỷ quang lâm chứng minh buổi: Lễ Thắp Nến Cầu Nguyện Nạn Nhân Covid-19 & Lễ Cài Hoa Hồng Nhân Mùa Báo Hiếu Qua trực tuyến: https://youtu.be/__xo5VCsy34 Vào tối Thứ Bảy, ngày 29 tháng 8 năm 2020 lúc 23:00g Melbourne.
28/08/2020(Xem: 15418)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 12783)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.”
27/08/2020(Xem: 7181)
Trong gần nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Đức Phật đã giảng dạy và hóa độ cho rất nhiều người thuộc nhiều thành phần, căn cơ và nguồn gốc khác nhau. Tùy cơ duyên mà Ngài sử dụng những phương cách giảng khác nhau để khai mở trí tuệ cho hàng đệ tử. Có khi Ngài dùng lời dịu dàng để khuyên răn. Có khi Ngài dùng các lý luận sắc bén để thuyết phục. Có khi ngài dùng những ví dụ, những ngụ ngôn. Có khi ngài dùng những định nghĩa. Cũng có khi Ngài dùng các ẩn dụ mạnh mẽ.
27/08/2020(Xem: 4720)
Tiến sĩ Phật tử Pierce Salguero là một tác giả, nhà nghiên cứu, giảng viên, người hâm mộ và nhà phê bình Phật giáo & Y học Châu Á. Ông là Tổng biên tập Y học Châu Á: Tạp chí của Hiệp hội Nghiên cứu Quốc tế Y học Cổ truyền Châu Á; là Phó Giáo sư Lịch sử Châu Á & Nghiên cứu Tôn giáo; Chủ nhiệm Chương trình Nghiên cứu Liên ngành.
26/08/2020(Xem: 7756)
Phần này bàn về cách dùng quan tiền và các cách tính tiền thời trước và thời LM de Rhodes, dựa vào tự điển Việt Bồ La và một số tài liệu chữ quốc ngữ và nước ngoài. Ngoài ra, một số nhận xét của người ngoại quốc khi dùng đồng tiền An Nam cũng cho thấy thực trạng của loại tiền này. Các phê bình này hầu như thiếu vắng trong tài liệu Hán, Nôm hay chữ quốc ngữ. Đây là những chủ đề có rất ít người đề cập hay khảo sát sâu xa.
25/08/2020(Xem: 10282)
Cư sĩ George Kinder được Quốc tế công nhận là Cha đẻ Phong trào Lập Kế hoạch Cuộc sống(*), ông được đào tạo tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ và đã thực hiện một cuộc cách mạng về tư vấn tài chính trong hơn 30 năm, bằng cách đào tạo hơn 3.000 chuyên gia tại 30 quốc gia trong lĩnh vực tài chính lập Kế hoạch Cuộc sống (the field of financial Life Planning). Ông thành lập Viện Kế hoạch Cuộc sống Kinder (the Kinder Institute of Life Planning) vào năm 2003 sau 30 năm làm nhà Hoạch định tài chính và Cố vấn thuế.
25/08/2020(Xem: 6347)
Lịch sử thật là muôn hình vạn trạng, các Sử gia lại càng biến hóa khôn lường. Họ cứ như một tiểu thuyết gia tài tình, uốn nắn nhân vật trong truyện với ngòi bút tinh xảo đầy quyền uy của mình thành một nhân vật như ý muốn: "Muốn sống được sống, muốn chết được chết và đặc biệt đang từ một Nữ Hoàng Đế mộ Đạo Phật trở thành một người phụ nữ dâm đãng, tàn ác giết người không thương tiếc". Nhân vật tôi muốn viết dưới đây là vị Nữ Hoàng Đế của triều đại Đường bên Trung Quốc: Võ Tắc Thiên, người đàn bà lừng danh kim cổ có một không hai trong lịch sử loài người.
25/08/2020(Xem: 6093)
(Ghi chú của người dịch: Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh. Bài này nêu ra hai phong cách: nhóm thứ nhất, những người dùng thiền chánh niệm cho các mục tiêu thế gian, và nhóm thứ nhì, những người có niềm tin Phật Giáo và dùng thiền chánh niệm cho lộ trình tu học giải thoát. Thiền chánh niệm hiện đang dùng cho nhiều mục tiêu trần gian, ở bệnh viện, trường học, quân đội… Thiền đưa tới nhiều lợi ích tới nổi nhiều tu sĩ các tôn giáo khác cũng Thiền tập và ứng dụng theo kiểu riêng của họ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]