Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ai Thấy Pháp Người Ấy Thấy Phật, Ai Thấy Phật Người Ấy Thấy Pháp

31/10/201109:56(Xem: 18725)
Ai Thấy Pháp Người Ấy Thấy Phật, Ai Thấy Phật Người Ấy Thấy Pháp
Buddha_1


AI THẤY PHÁP NGƯỜI ẤY THẤY PHẬT,
AI THẤY PHẬT NGƯỜI ẤY THẤY PHÁP

Thích Hạnh Bình

Nội dung mà chúng tasẽ thảo luận trong bài viết ngắn này là “Ai thấy pháp là người ấy thấy Phật, aithấy Phật người ấy thấy pháp”. Thật ra chủ đề này không phải tác giả tự đặt màvốn là lời Phật dạy, được tìm thấy nhiều nơi trong kinh A hàm hay Nikaya.

Nguyên nhân đức Phậtnói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâmchung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lầncuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi Thế Tôn ở được,cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mìnhở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khiđến đức Thế Tôn hỏi:

-Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vânhay hối hận không ?

-Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân conkhông đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn..

-Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. NàyVakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.[1].

Trênđây là đoạn đối thoại giữa Thế Tôn và Vakkali. Qua mẫu đối thoại này, nó gợi ýcho chúng ta hiểu rõ một vài vấn đề căn bản trong Phật pháp. Vấn đề trước tiênmà chúng ta cần xác định nơi đây là. Đức Phật và Tỷ kheo Vakkali đứng hai vịtrí khác nhau. Tỷ kheo Vakkali đứng từ góc độ tình cảm, có lòng kính ngưỡng,muốn đảnh lễ và tận mắt nhìn dung nhan đức Phật lần cuối trước khi nhắm mắt lìatrần. Thế nhưng, đức Thế Tôn không đứng từ góc độ tình cảm này, an ủi Vakkali.

Ngượclại Ngài đã đứng từ góc độ một vị Đạo sư đến thăm Vakkali lần cuối và giáo dụcVakkali nhận chân được chân lý để được giác ngộ và giải thoát, cho nên Ngài đãnói câu: ‘có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này’ .

Theotôi lời nói này có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất mà Ngài muốn trao truyền chochúng ta là, Ngài là con người như bao nhiêu con người khác, do vậy thân thểcủa Ngài cũng giống như bao nhiêu thân thể khác, cũng cần có sự ăn uống ngủnghỉ, cũng có trạng thái bịnh hoạn ốm đau và bài tiết. Những chất được bài tiếtra mùi tanh hôi cũng giống như mọi người khác. Không nên có suy nghĩ ngây thơ chorằng, đức Phật không còn những hiện tượng này.

Nếuchúng ta có cho rằng, Phật và chúng sanh khác nhau, sự khác nhau đó cũng chỉ làsự khác biệt giữa nhận thức, tức là sự khác biệt giữa người đã giác ngộ(Buddha) và chưa giác ngộ. Người đã giác ngộ không còn những loại khổ về mặttâm lý, nhưng những loại khổ về mặt tự nhiên vẫn còn, như nóng lạnh, bịnhhoạn.v.v...

Cònngười chưa giác ngộ, có cả hai loại khổ tự nhiên của vật lý và tâm lý. Thật ranổi khổ lớn nhất của con người là nổi khổ về tâm lý, không phải vật lý. Thứhai, Ngài muốn nói rằng, Vakkali là người sống quá nặng nề về tình cảm, quá chútrọng về mặt hình thức bên ngoài của Như Lai, không thấy cái giá trị đích thựctừ bên trong mà Ngài đã chứng được dưới cội cây Bồ đề. Cái giá trị của đức ThếTôn là chân lý không phải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp. Thế thì Vakkali muốndiện kiến cái thân tướng của Thế Tôn để làm gì? Có ích gì cho sự thuyên giảmcơn bịnh trầm trọng mà ông đang gánh chịu? Có giúp gì cho cái chết sắp cận kềmà Vakkali đang đối mặt ?

Trướcnổi đau khổ này, chỉ có giáo pháp mà Thế Tôn đã chứng mới có thể làm chấm dứthay tối thiểu cũng làm giảm bớt sự đau khổ của Vakkali, cái pháp đó, chân lý đóVakkali cần phải diện kiến thấy được trước khi qua đời, nếu không sống đời sốngxuất gia vô ích, không có lợi gì cho mình huống gì là làm lợi lạc chúng sinh.

Thếthì chân lý mà Ngài chứng được dưới cội cây Bồ đề là gì ? Đó là đạo lý duyênkhởi (pratiya-samutpada), nguyên lý vận hành của con người và vũ trụ, trên thếgian không có một vật, một người nào sinh tồn hay biến mất mà không theo nguyêntắc này. Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật trình bày trong “Kinh Tạp A hàm” vớinội dung như sau:

“Phápduyên khởi chẳng phải do ta làm ra, chẳng phải do người khác làm ra. Dù Như Laicó xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian, pháp này vẫn tồn tại. Như Lai tựgiác ngộ pháp này, thành đẳng chánh giác...”[2]

Giáolý mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là duyên khởi mà duyên khởi lànguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do đức Phật tự mình sáng tạo ra mànó là nguyên tắc vận hành của con người và vũ trụ, không có một cái gì mộtngười nào lại vận hành ngoài qui luật này, cho nên giáo lý duyên khởi được gọilà chân lý. Từ chân lý trong nhà Phật được mang ý nghĩa như vậy, không phải làlời nói hồ đồ, thiếu cơ sở.

Căncứ từ giáo lý duyên khởi này, đức Phật chỉ ra bản chất con người không có cáigì gọi là ngã (atmam) hay linh hồn trường cửu, các sự vật luôn luôn ở trongtrạng thái thay đổi chuyển dịch, sự chuyển dịch đó đức Phật gọi là vô thường(anitya), không có một pháp nào đứng yên cố định. Sắc đẹp, sự giàu sang, địavị.... dù chúng ta có cố giữ đến đâu, rồi cũng phải chịu đổi thay ở một lúc nàođó. Sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu chính là sự nhận thức đúng hay sai,có nghĩa là thái độ của chúng ta như thế nào về thực trạng này.

Ngườitrí chắc chắn không cưỡng ép làm một việc gì trái với qui luật, do vậy khi sựvật vô thường chuyển dịch, người trí không vì vậy mà sinh buồn rầu lo âu hay cóthái độ chống đối, chỉ có kẻ ngu mới muốn bắt sự vật đứng yên theo ý mình. Muốnmà không được là nguyên nhân sinh ra đau khổ.

Vìlòng thương chúng sanh trầm luân trong đau khổ, đức Phật tùy theo căn cơ vàtrình độ khác nhau của mỗi loại chúng sanh, dùng mọi phương tiện khác nhau chỉcho chúng sanh thấy được chân lý này, để họ được giác ngộ và giải thoát mà hìnhthành Tông phái, phân chia có Tiểu có Đại.

Từđiểm này nó gợi ý cho chúng ta hiểu, Pháp duyên khởi, vô thường, vô ngã là chânlý, những phương tiện hay những hình thức giáo dục khác nhau, nó không phải làchân lý, vì nó chỉ có giá trị, và phù họp với một đối tượng cụ thể và nhất địnhnào đó, không thể là cái chân lý chung cho mọi con người và mọi xã hội khácnhau, cho nên không được gọi là chân lý.

Ởđây tôi muốn mọi người nên chú ý một điều rằng, Lòng ngưỡng mộ đó rất tốt vàrất cần, nhưng chúng ta không nên lẫn lộn lòng ngưỡng mộ này đồng nghĩa sự hiểubiết về Phật pháp. Xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tôn sùng đó, chúng ta đã phátngôn rất bừa bãi, đôi khi có thương tổn đến Phật pháp.

Vídụ chúng ta thường nói rằng, Phật pháp là chân lý, trong khi đó chúng ta giớithiệu một số quan điểm về Phật pháp, nó hoàn toàn không liên hệ có giá trị gìvới đời sống con người, đôi khi lại có hại cho cuộc sống. Trong khi đức Phật nổlực giới thiệu, làm cho con người thấy rõ được chân lý để được giác ngộ và giảithoát thì chúng ta làm ngược lại giới thiệu với con người xã hội với những quanđiểm mù mờ, đen tối, thiếu cơ sở, thiếu ánh sáng của khoa học.

Thếthì những quan điểm đó làm sao gọi là chân lý được? Có thể điều đó đúng và họplý cho một phần tử nào đó trong xã hội, nhưng không phải là tất cả, cho nênkhông thể gọi là chân lý. Đó chính là lý do tại sao đức Phật dạy: Tin ta màkhông hiểu ta là hủy báng ta. Hoạt động của khối óc và con tim là hai lãnh vựckhác nhau, cả hai đều cần cho sự sống của con người, nhưng không thể thay thếcho nhau.

Tráitim mà thay cho khối óc suy nghĩ sự việc thì cuộc đời sẽ xuất hiện biết bao sựlộn xộn và rối rắm; Khối óc mà thay thế cho trái tim làm việc thì cuộc sống củacon người chẳng khác nào như sinh hoạt của tòa án, cho nên chúng ta không nênlẫn lộn giữa khối óc và con tim. Theo tôi, nên sống với nhau bằng trái tim vànên làm việc bằng khối óc.

Quasự trình bày trên nó giúp chúng ta lý giải câu: Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta,Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp. Ở đây khái niệm Ta chỉ cho đức Phật, như vậycâu này được hiểu là Ai thấy pháp, người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấythấy pháp. Pháp ở đây chỉ cho giáo pháp duyên khởi. Ai thấy được pháp duyênkhởi, người ấy cũng thấy được trạng thái vô thường, vô ngã của vạn vật và ngaycả bản thân mình.

Aiđã thấy được vô thường vô ngã thì người ấy không thể chấp: “Cái này là của tôilà tôi là tự ngã của tôi”, như vậy, được giác ngộ và giải thoát. Ở đây, kháiniệm giác ngộ và giải thoát là khái niệm mô tả về kết quả của sự thấy và biết,từ trong nhà Phật thường dùng là trí tuệ, chính là kết quả sự tu tập của đứcThế Tôn dưới cội cây Bồ đề. Sự giác ngộ này đã làm cho chính Ngài thoát khỏimọi sự ràng buột khổ đau, cho nên gọi là giải thoát. Bất cứ ai giác ngộ nhưNgài cũng sẽ có những sự giải thoát như Ngài không cao không thấp.

Đươngthời cũng đã có nhiều người của nhiều giai cấp khác nhau thực hành lời dạy củaNgài, cũng đã được giác ngộ giải thoát. Sau khi sống trong giáo pháp của Ngài,được giác ngộ giải thoát, họ mới cảm thấy rằng, sự khác biệt giữa đường lối tutập của đạo Phật và các tôn giáo truyền thống Ấn độ rất xa. Đức Phật thì khuyêncon người “Đến đạo Phật để thấy và biết, giải quyết khổ đau, chứ không phải đểtin” còn các tôn giáo khác thì đặt nặng niềm tin niệm chú và cầu nguyện.

Đóchính là lý do tại sao có nhiều người sau khi nghe đức Phật nói pháp bèn phátbiểu:

“Thậtvi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gìbị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạchướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày,giải thích.”[3]

Nhưvậy, điểm nổi bật của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sự giác ngộ giải thoát, khôngphải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp, nguyên tắc để trở thành bậc giác ngộ giảithoát chính là thấy được pháp duyên khởi vô thường vô ngã. Như vậy, ai muốnthấy Phật thì người ấy phải thấy được pháp. Cũng vậy, ai đã thấy được phápduyên khởi vô thường vô ngã cũng có nghĩa là người ấy đã thấy Phật, vì kháiniệm Phật với khái niệm pháp chỉ cho người thấy chân lý và chân lý.

Nhưvậy, tỷ kheo Vakkali nếu muốn diện kiến đức Thế Tôn cần nên diện kiến sự giácngộ và giải thoát, nếu như Vakkali muốn tỏ lòng ngưỡng mộ đức Thế Tôn thìVakkali nên thực hành giáo pháp của Ngài, nếu như Vakkali muốn đoạn trừ nhữngnổi khổ đau cho mình thì Vakkali chính mình phải giác ngộ lý duyên khởi vôthường và vô ngã., còn nếu như Vakkali muốn hóa độ chúng sanh thì trước tiênVakkali phải giác ngộ chân lý. Đó là nội dung và ý nghĩa câu: “Ai thấy pháp,người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấy thấy pháp” khi Ngài khuyên tỷ kheoVakkali lúc lâm bệnh.

Dẫurằng, đây là lời dạy của Thế Tôn cho Tỷ kheo Vakkali trong quá khứ. Tôi tinrằng, nội dung và ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị thiết thực cho Phật giáongày nay. Phải chăng chúng ta đang cố tô son phết vàng ca ngợi 32 tướng tốt củađức Phật nhưng chúng ta lại vô tình hay cố ý quên đi giáo pháp mà Ngài đã giácngộ ?

Phảichăng với lòng kính ngưỡng chúng ta dùng mọi lời tán dương, giới thiệu tínhsiêu việt của hệ thống triết lý nhà Phật, nhưng chúng ta quên rằng thế hệ tuổitrẻ ngày hôm nay là thế hệ được được trưởng thành trong xã hội tiến bộ về khoahọc kỷ thuật, và được đào tạo trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có trình độchuyên môn cao, chúng sẽ khó chấp nhận những quan điểm mù mờ thiếu cơ sở khoahọc. Trong khi đó phần lớn của con người trong xã hội ngày nay, quan tâm đếnnhững vấn đề có liên quan đến con người và xã hội mà họ đang sinh tồn, khôngphải là những vấn đề mang tính triết lý siêu hình.

Tôitin rằng, giáo lý mà đức Phật giác ngộ là giáo lý cho con người, đối tượng màđức Phật giáo dục là con người. Dẫu rằng hệ thống giáo lý đó đề cập giải quyếtnhững vấn đề cụ thể trong quá khứ, đôi khi không còn phù họp cho con người vàxã hội ngày nay, nhưng ngang qua những hình thức giào dục đó, nó vẫn ẩn chứamột nguyên lý tinh thần giáo dục mà đức Phật muốn gởi cho các thế hệ sau khôngcùng xã hội và lãnh thổ. Nguyên lý đó, tinh thần đó có giá trị tuyệt đối, ápdụng cho mọi thời đại và con người.


[1]H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt namẤn hành, năm 1993, trang 219.

[2]H.T Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1, Viện nghiên cứu Phậthọc Việt nam ấn hành 1993, trang 635.

[3]H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam Ấnhành, năm 1993, trang 219.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 7608)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9109)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14271)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8208)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12854)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8477)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10049)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9374)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8358)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8736)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]