Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Thường Là Bài Thơ Đẹp

20/10/201103:08(Xem: 9350)
Vô Thường Là Bài Thơ Đẹp
labode_10
VÔ THƯỜNG LÀ BÀI THƠ ĐẸP
Cư sĩ Liên Hoa

* Kính dâng tất cả mọi người mang tấm lòng, lý tưởng, tình yêu đi vào vô thường, huyễn mộng với ước nguyện làm lợi lạc, giảm thiểu khổ đau cho con người…
* Thương tặng Diệu Tịnh, người bạn Đời và bạn Đạo, với tình thương, lòng kham nhẫn đi bên cạnh săn sóc trong những ngày cuối đời của tôi.
* Thương tặng hai con, để hiểu và luôn luôn nuôi sống lý tưởng cùng Ba…..
Bên nắng hồng xưa cũ
Màu lam phủ chân đồi
đời người bao suơng gió
niềm tin vẫn lên ngôi
Gió thức giấc sáng nay
sưởi ấm lòng ẩn sĩ
bên vô ngã vô thường
an nhiên cùng chánh pháp ..

Thành phố tôi đang cư ngụ, được hai ngày mưa trút xuống, làm mát rượi cả bầu trời, sau gần ba tháng hạn hán. Cây cối hình như đang cố vươn mình lên, sống lại, sau những ngày tháng dài thiếu nước, cỏ lá vàng khô, dù Thu chưa tới. Nạn cháy rừng đã lan rộng ở nhiều nơi trong Tiểu bang, mấy chục ngàn mẫu rừng bị đốt cháy hoang tàn, trơ trọi, ngay cả nhà cửa, trên một ngàn căn, nhiều nơi là di tích lịch sử, nhưng vẫn không cứu vãn được, gây nên thiệt hại trầm trọng, trong khi mà thời buổi kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Mưa đổ xuống đem lại sức sống cho mọi người, cây cối, làm khí trời trong tươi, mát mẻ hơn. Hình như mọi vật đều mở rộng trái tim, mọi khứu giác để thưởng thức, để ngửi cho được mùi mưa đã bị thiếu vắng, chào đón cho những ngày mới.

Tuy nhiên, chỉ mới có vỏn vẹn vài ngày mưa thôi, làm sao đủ đem lại sức sống tươi mát cho mọi người cùng cây cỏ, do hậu quả kéo dài, nhưng lại có nhiều người cảm thấy bị trở ngại vì những việc cần làm đã chuẩn bị, hay các tổ chức cho cuối tuần, sợ ảnh hưỡng của cơn mưa làm gián đoạn những dự tính, nên thầm cầu mong cho đừng mưa nữa. Đó cũng là điều ngịch lý của đời thường, nhưng cũng đã có sự than vản, mong được như vậy, mà vô tình quên đi biết bao nhiêu thảm cảnh đã và đang xẩy ra do hạn hán. Nghĩ cũng vui cho những ước muốn của con người, chỉ vì mong cầu những gì ích lợi nhỏ bé của mình, mà đôi khi lại quên đi tất cả. Cho nên, trong cuộc đời, nếu như mọi người chỉ cần chuyển tâm, ý thức và chấp nhận những hy sinh nhỏ nhoi của mình, cũng có thể làm cho biết bao nhiêu các cảnh khổ có thể giảm thiểu rất nhiều trên thế gian nầy. Đó là sự chuyển tâm hay là thay đổi cách nhìn, không còn bị đóng khuông trong cái ngã nhỏ bé hạn hẹp, vì tất cả các pháp là như vậy, không có sự vật gì hiện diện, tồn tại độc lập, mà nương tựa lẫn nhau và cũng là tư tuởng của đạo Phật, chứng thực và nói lên sự tương duyên tương sinh của vạn pháp và các pháp vốn vô ngã.

Nhìn các hình ảnh của rừng cháy, thiêu rụi nhà cửa, hạn hán nói lên sự nóng đốt, tiêu hũy, tàn phá…làm nhớ đến lời Kinh thường dạy:” Một niệm sân hận vừa khởi, có thể tiêu hũy hết rừng công đức”. Lửa của ngoại giới có thể làm hư hại cho con người và vật chất, nhưng lửa của nội tâm trong những cơn giận dữ, tiểu hũy cả các rừng công đức, thiện nghiệp của con người đuợc tích lủy trong cuộc đời và dẫn đến con đường nối tiếp nhiều khổ lụy, luân chuyển, khổ đau. Nhưng, chỉ với cơn mưa, vâng, với giọt nước từ bi rơi nhẹ nhàng trên cái tâm đang hừng hực lửa, có thể làm dịu lại, làm mát ruợi trái tim, làm cho niềm an lạc có mặt.

Nay, nắng lại lên rồi, hãy cười vui cùng tuế nguyệt, để nghe lại những ca khúc tự ngàn xưa vẫn réo rắc trong tâm, để vượt qua những chặng đường vô tướng “gate gate paragate parasamgate”, để thành tựu “svaha”. Con đường xưa của người cùng tử vẫn là trở về, trong niềm cô đơn tịch liêu, đơn độc, nhìn mây trắng lưng đồi, nghe lại gió heo mây thoảng dịu hương thơm kỳ diệu của tự tánh.

đất trời đang thay áo
người khoác suối mây ngàn
ngàn năm lời tình tự
ngày vắng tỏ trăng vàng.

Trong ngả ngách, chiều sâu của tâm thức, nhìn rõ tận bờ sông vô thường, nghe lại lời Phật dạy:”các pháp như huyễn”mà lúc nào đó, hình như quên mất, để chạy theo thời gian, theo thị hiếu kêu gọi tâm buông lung. Mây trời thay áo, có gì là lạ chăng, gió đuổi theo mây, mây vờn mình qua gió, bồng bềnh phiêu lãng, tụ lại là mây, tan đi là gió, có có không không, người vẫn ngàn xưa có cùng Phật tánh, an nhiên trong Pháp giới, có chăng vì nằm ngủ quên lối về, chợt giật mình thức giấc, thấy trăng vàng soi tỏ lúc nắng vẫn còn say, lúc ngày vắng, lúc tâm trong, không phải là các pháp vẫn thường “bất sinh bất diệt…”ư?

Sao đạo Phật hay nói về Vô thường, không có gì tồn tại mãi ? Điều mà thường tình, chúng ta lại sợ hãi khi nghe lập đi lập lại ngôn từ chân chất nầy, vì không ai muốn mất đi tất cả những sở hữu đang có. Nhà nấy của tôi, tài sản của tôi, thân tôi đây v.v..tất cả nằm trong bàn tay tôi, của chính tôi, và đang hiện hữu, tồn tại cùng tôi, thì làm sao nói là vô thường được. Chúng ta trốn tránh và tham chấp vào những pháp được cấu tạo bằng huyễn hoá, duyên sinh và rồi đau khổ, vì không dám đối diện thẳng vào Khổ đế.

Ta bước chân thưở đó
hạt cát chuyển lời thơ
lăn tròn theo vòng xoáy
hai hàng tâm ngẫn ngơ..

Bước chân vẫn ung dung chạy theo vô thường của thưở nào đó khi nắm bắt được một số hiện hữu, để rồi lăn tròn theo vòng xoáy cát bụi, biến hình thay dạng, Trốn tránh, phủ nhận để không dám nhìn sự thật, vì sự thật là Vô ngã. Đức Phật vì lòng thương con người nên chỉ rõ con đường Chân thật, tìm lại tâm mình trong những sóng gió khổ đau, biến đổi, mà tìm thấy được Chân thường trong Vô thường, không có nghĩa là hũy diệt tất cả mọi sở hữu, là bi quan, yếm thế…nhưng là để chuẩn bị tư lương cho cuộc trùng phùng, nhìn rõ chân tướng của Sự thật, để tránh khỏi đau khổ, buồn lo, do tham đắm, ái ngã.

Trong cuộc đời, chúng ta đã sinh ra, rồi lớn lên, trưởng thành, rồi già, rồi bệnh và còn một cánh cửa mở rộng, vì ai cũng phải đi tới, đó là cái chết. Cái gì có mặt trong ta, trong suốt khoảng thời gian gọi là dài cho một đời người, nhưng lại ngắn đối so với không thời gian, phải chăng là sự biến chuyển của thành trụ hoại không, là điều dĩ nhiên.

Chúng ta hoảng sợ trước những biến đổi quá nhanh của những hiện tượng ngoại giới, nên cần phải tân trang để bồi đắp, để kéo dài thời gian, hoặc nhân đôi lên, nhân nhiều lần hơn, để tích lủy, để tránh mất mác, tàn phai, úa tàn và để rồi, vẫn được chiêm nghiệm những được mất, vinh nhục, thịnh suy … trong cuộc đời. Đó là một thực tế của cuộc đời, không phải để mang lòng bi quan, chán nản, nhưng để nhìn rõ tường tận các pháp. Tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, nhà cửa… thật phù du như sương rơi buổi nắng sáng, có đó mất đó, dù chúng ta cố bám víu, gìn giữ, và chính các pháp nầy lại gây nhiều đau khổ. Điều nầy, ai trong chúng ta cũng điều trải qua, kinh nghiệm được, nhất là hiện lúc có quá nhiều biến đổi xung quanh do môi trường, do thiên tai, nhân tai, do chiến tranh v.v…

Tìm các pháp hữu vi bên ngoài, chúng ta mang dấu vết của tàn tích khổ đau, dày xéo trên cuộc đời ngắn ngủi, vô thường, khiến chúng ta tìm trở về chính bản thân của mình với cái thân được cấu tạo bởi năm uẩn, mong muốn được tồn tại mãi với thời gian….Trong Kinh, thường được nhắc nhở:

“Các pháp từ duyên sinh .
cũng do duyên mà diệt.
Thầy tôi Bậc Tỉnh Thức
thường dạy điều như thế.”
( Chư pháp tùng duyên sinh, Diệc phục tùng duyên diệt. Ngã Phật đại Sa môn,Thường tác như thị thuyết).

Điều nầy đánh mạnh vào tâm thức của mỗi con người để nhận thức đúng sự hiện sinh, hiện hữu của các pháp, tâm cũng như vật, đều là do duyên sinh. Có nhận thức đúng, chúng ta mới không khỏi bâng khuâng, đau khổ, lang thang đi tìm cho những vấn nạn của chính đời mình trong những hoang tưởng về sự sinh tồn miên viễn của các pháp giả hợp…

vô thường nên rớt lời thơ
chép thơ lại thấy vô thường đùa vui
làm sao lại hỏi vô thường
bài thơ nào chẳng từ vô thường rơi..

Trong đạo Phật nói rằng:”Phật pháp không lìa pháp thế gian” (Phật pháp bất ly thế gian pháp). Khi các duyên sinh, khởi hiện, thành hình dù là tâm hay vật, qua dữ kiện đó, cũng nói lên được hình ảnh tương liên của các dữ kiện với những gì của đời thường, để mà giải thích, chỉ dẫn, nhận thức, hầu chuyển đổi tâm ý để cho cuộc sống có nhiều an vui, tối đẹp hơn, thay vì ôm chấp vào những gì chỉ là giả hợp và rơi vào khổ đau, do sự chấp trước.

Trái đất được hình thành do bởi nghiệp lực chung của tất cả mọi sinh vật cấu tạo nên, để là môi trường sinh sống và mỗi hữu tình đều có biệt nghiệp riêng lẻ… hiện nay, đang có vấn đề, nóng dần lên, gây nhiều thiên tai, lụt lội ở nhiều nơi trên thế giới. Điều đó biểu hiện tâm con người ngày càng xa lìa suối nguồn của Chân Tánh, thiếu chia sẻ, thiếu đời sống tâm linh, dù rằng cuộc sống văn minh hơn, tiến bộ hơn, đầy đủ nhu cầu vật chất hơn v.v… Có những vấn nạn mà con người phải đối diện, nhưng vẫn không có những đáp án cần thiết để có thể cứu nguy cho một số người từng vùng địa phương khổ nạn, huống chi là cho toàn thể nhân loại, cho con người trên trái đất nầy. Nếu những người thiếu bình tâm, nhìn cuộc diện thế giới, đôi khi bị quay cuồng theo vòng xoáy do tác động muôn đời của tham sân si, gây nên những khổ đau cho nhau và trong tận cùng của mọi vấn nạn, chúng ta bắt gặp được hình ảnh vô thường có mặt trong tất cả các pháp.

Vẫn là điệp khúc được lập lại, đời thật là vô thường, không có gì tồn tại mãi với thời gian, như trong Kinh Kim Cang nói:” Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng” (Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng). Đây là điều thật hiễn nhiên, rõ ràng vì mọi vật đều diễn biến, chuyển biến liên tục, có đó mất đó.

Trong lịch sử của nhân loại, đã bao nhiêu nền văn minh có mặt và biến mất, đã bao nhiêu quốc gia thành hình và bị hũy hoại, đã bao nhiêu con người có mặt trên trái đất nầy và đã ra đi, dù là Thánh nhân hay phàm tục, dù là người giàu sang phú quí hoặc nghèo nàn, tất cả không chừa một ai. Ngay những người thân thương của mình, ai cũng cầu mong cho được sống trường thọ, sống mạnh khoẻ, nhưng nay thì ai còn ai mất. Ngay cả chính bản thân, cơ thể của mình, cũng không thể nào kiểm soát được, vì đến một lúc nào đó, cơ thể bỗng nhiên đỗi tánh, gây nên bệnh hoạn, nay đau chỗ nầy, mai nhức chỗ kia, dù chúng ta không ai mong đợi.

Một buổi sáng soi gương, tôi ngạc nhiên khi nhìn trong gương, thấy một con người với hình hài xa lạ xuất hiện. Có phải là tôi chăng, sau bao tháng tịnh duỡng bệnh tình? Hay là một con người khác, vì có rất nhiều sự khác biệt …Một con người mà nhìn thật lâu, thật kỹ, cảm thấy chán vô cùng, không có chút xíu gì để có thể thương mến được. Ôi, cuộc đời trở nên thật đẹp, thật nhiều ý nghĩa hơn, phải chăng? Trong đời thường, tôi vẫn ước muốn tấm lòng mang ân đức Phật được trải rộng đến mọi người để cùng tắm mình trong mưa Pháp, để làm giảm thiểu đi gánh nặng phong sương trên đôi vai đời xuôi người trong những ngày còn có mặt trên thế gian nầy …

tay ôm đoá hoa hồng
màu sắc hương tuyệt diệu
chắp tay dâng cúng Phật
ngọn gió vô tình qua
từng cánh hoa rải rác
bay đi về chốn nao
ta vói tay gom lại
chỉ còn là bài thơ…

Đoá hồng tươi đẹp trong cuộc đời dâng lên đức Từ Phụ, như một tấm lòng và dù gió có cuốn đi bao ước vọng, dù thời gian có làm mờ đi bao tấm lòng, nhưng trong cõi « sơ tâm» vẫn còn muôn vạn lời nói tình tự gom lại, kết thành những bài thơ, bài thơ của xương thịt trong nội tâm trở về với Tánh giác.. Và dù có cảm khái khi cảm nhận rõ bốn đại : đất nước gió lửa từ từ rời bỏ trong sắc uẩn, để hỏi lại cùng ta trong ngày tháng….

ồ hay da thịt đi đâu
ồ hay sao chỉ còn là bộ xương
may nhờ Chân tánh vẫn nương
nên chăng còn lại nụ cười dễ thương …

Dù da thịt có mất đi, dù đất nước trong bốn đại có làm hũy hoại hình hài, tiêu hao sức mòn những gì còn lại của cơ thể, tôi vẫn nương vào Chân Tánh để sống vui hồn nhiên, an bình trong từng tâm niệm, để có còn lại nụ cười, dâng tặng lại cuộc đời, vì nụ cười nầy thoát thai, sinh khởi từ những quán niệm về duyên sinh duyên diệt. Tôi đã từng quán chiếu về vô thường của các Pháp, nhưng nay là lúc thực nghiệm, thể nghiệm lại tất cả, không phải là những gì trừu tượng, trong tư tưởng, trong cảm xúc với các giả thiết mông lung, nhưng là những gì cảm nhận được trong từng ngày, từng giờ, trên từng sớ thịt biến chuyển của cơ thể mình.

Đó là bài học sâu sắc về duyên sinh, để nhận thức đúng ý nghĩa của cuộc đời, là những gì thấu triệt đến căn nguyên của của sự đối đải của các Pháp, tìm đến Tánh Thể sâu thẳm của Tâm, của Thực tại mà Đại Thi Hào Nguyễn Du, người từng đọc nhiều Kinh Phật thốt lên rằng"Nhân liễu thử tâm nhân tự độ. Si tâm quy Phật, Phật sinh ma"(Tạm dịch : Người tự biết lòng mình thì người tự cứu. Si tâm quy Phật, Phật sinh ma) và để rồi, nhận ra được:”"Tài tri vô tự thị chân kinh"(Tạm dịch: Mới biết rằng không có chữ là chân kinh).

Chân Kinh là vô tự, vì đó là sự sống. Cuộc sống có mặt khi con người chào đời và cuộc sống sẽ chuyển hoá, khi con người đối diện đến cái Chết, đó là con đường đi chắc chắn, tất yếu của mọi sinh thể trên trần gian nầy. Sống đề Chết và Chết để Sống. Có thể nói đó là quán niệm về cái Chết để cuộc sống có ý nghĩa đẹp hơn, vì không còn gì để lưu luyến, chấp thủ, mở rộng tâm cho hồn gió lồng lộng trong từng tâm thức, cho những nốt nhạc cuộc đời là diệu hương thanh khiết, cho những hướng tâm là hạt cơm thơm ngát trời Hương tích, cho vô luợng cõi Phật trụ trong mỗi hạt vi trần và vươn cao trên phương cao rộng, do sức nguyện ra đi. Người hành giả phải là người mở tâm, mở mắt sâu rộng để nhìn rõ con đường đi..

buổi sáng nghe chim hót
màu xanh cỏ thấm vai
hạt sương vô tình rớt
suơng mai bẻn lẽn cười
nhìn nhau, màu sương khói
hồn nhiên, nhật nguyệt vui
thường mở tâm nhìn lại
từng tràng thơ tuôn rơi…

Chiến tranh đang tràn lan khắp mọi nơi, bao khổ cảnh đang thành hình dày xéo lên thân phận con người, muôn loài trên quả hành tinh xanh nầy. Giải pháp nào cho những nguy cơ có thể hũy diệt toàn thể nhân loại khi lửa tham sân si luôn luôn hừng cháy?

Đọc tin tức, được biết có một số quốc gia mà Bộ Giáo Dục đã chấp thuận cho áp dụng Thiền trong những lớp học, thật là một sự vui mừng, vì phải chăng, họ nhìn được căn nguyên của vấn nạn của con người. Chúng ta tha thiết mong mỏi rằng, nếu có thể, thì “ Năm Giới Chánh Niệm” của đạo Phật, được Thầy Nhất Hạnh biên soạn lại từ Năm Giới Cấm trong đạo Phật, cũng được cho phép tất cả học sinh ở khắp mọi nơi được học, từ lớp nhỏ đến lớp cao hơn, vì đây là ý nghĩa của cuộc sống, để chuyển hoá nội tâm, xây dựng con người an lạc, nhân bản và xây dựng xã hội được thanh bình, giảm thiếu những khổ đau, bất hạnh .. từ tinh thần đến vật chất, đóng góp cho nền văn minh của nhân loại, đó là:

- Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.

- Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

- Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.

- Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.

- Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.).

Nguyện cầu xin tất cả những tôn giáo lớn của nhân loại, hãy đem những tinh túy, tinh hoa của đạo trên tinh thần hoà đồng, vị tha, giải thoát, ban vui cứu khổ … của tôn giáo đích thực, để giúp cho loài người chuyển hoá và giải thoát, vượt qua những vấn nạn do tham sân si, để đem lại Thanh bình và Hạnh phúc chân thực.

Cầu xin cho Giáo Pháp của đức Từ Phụ tràn lan khắp mọi nơi chốn, để giọt nước cành dương tưới tắt bao ngọn lửa hận thù, đau khổ, bất hạnh của loài người, để cho muôn loài đều sống chan hoà trong Hạnh Phúc, trong đó có chúng ta và bao nhiêu thế hệ sau nầy…

người ôm một giấc phù du
đi vào sương gió, tình trong gọi là
nắng rơi vạn nẻo sơn hà
bước chân thưở đó vẫn còn thong dong
tay mừng giữ lấy bàn tay
chép kinh vào chỗ chẳng phai bụi đời
một mai, nắng rọi chân kinh
lời thơ còn đó, giữ đời cùng nhau…

Xin được kính dâng tất cả mọi người để chia sẻ với tất cả lòng quí kính và trân trọng.

Những ngày vào Thu

18.10. 2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6365)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6395)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5550)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3888)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3977)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4741)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4751)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5127)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5273)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6548)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]