Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân Duyên Đẹp Xấu Giàu Nghèo Sang Hèn

21/08/201120:45(Xem: 10438)
Nhân Duyên Đẹp Xấu Giàu Nghèo Sang Hèn

Le khai mac_khoa tu Au Chau ky 27 (39)

Nhân Duyên Đẹp Xấu Giàu Nghèo Sang Hèn
Thích Đạt Ma Phổ Giác
       
Bố thí cho người bình thường, một ngày sống của họ là 
một ngày tham lam, si mê, thù hận, nên giá trị phước báo có giới hạn. Nhưng không lẽ vì phước báo có giới hạn mà ta ngoãnh mặt làm ngơ đối với những mãnh đời bất hạnh, ta tìm kiếm đối tượng để cúng dường như vậy sẽ dẫn đến tâm không bình đẳng cúng dường, bố thí như vậy còn có tâm phân biệt ta người.

Một hôm hoàng hậu Mạc Lợi, bà cùng với chừng một trăm thị nữ mang theo lễ phẩm đến Kỳ Viên cúng dường đức Phật và Tăng chúng; sau đó, bà xin được đảnh lễ, hầu Phật rồi thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay cho đệ tử được hỏi về những điểm khác biệt và giống nhau, liên hệ đến sự đẹp, xấu, giàu, nghèo, sang, hèn của tất cả người nữ trên thế gian này?

Thứ nhất là do nhân gì, do duyên gì mà trên thế gian này có một số phụ nữ hình tướng xấu xí, mặt mày khó coi, lại còn sống đời nghèo nàn, đói khổ trong thân phận thấp hèn, hạ liệt làm cho ai cũng muốn tránh xa, không thích gần gũi?

Thứ hai, do nhân gì, do duyên gì mà có hạng phụ nữ tuy xấu xí như trên nhưng lại sống đời phú quý, có danh vọng, có địa vị cao sang quyền quý cùng gia đình người thân đủ đầy.

Này hoàng hậu Mạc Lợi: Trên thế gian này có hạng người phụ nữ tính tình nóng nảy, sân nộ bất thường, dễ dàng nổi cơn lôi đình khi có ai xâm phạm đến, dù chỉ là việc nhỏ mọn, vụn vặt. Một chút gì đó đụng đến “cái ta” của họ, họ liền tức khắc biểu hiện sự không hài lòng; thế là cơn nóng giận, sự dữ dằn bộc phát ngay, thường gây thù chuốc oán với người khác.

Không những thế, hạng người nữ này không có đức tin với thiện pháp, không hoan hỷ tạo phước điền, không bao giờ bố thí cơm, nước, hoa quả, thuốc men, vật thơm, dầu thoa, nhu cầu phương tiện, vải vóc, y phục, đèn dầu, chỗ ở, chỗ nằm, ngồi... đến chư sa-môn, bà-la-môn hay cho người đói khổ. Ngoài ra, tính tình họ thường hay đố kỵ, ganh tỵ đối với những người có của cải tài sản; đem tâm tỵ hiềm với sự làm phước của người khác; ganh tỵ với những người có nhiều lợi lộc, người được quần chúng cung kính, mến mộ; và họ còn làm nhiều việc sái quấy, xấu ác khác nữa.

Số phụ nữ này sau khi thân hoại mạng chung, bị nhiều quả báo đau khổ trong bốn ác đạo, nếu do ảnh hưởng một phước lành nào đó trong quá khứ, được tái sanh trở lại làm người thì sẽ rơi vào trường hợp hạng phụ nữ thứ nhất: Vừa xấu xí, đói nghèo vừa sống đời hạ liệt, bất hạnh – này hoàng hậu Mạc Lợi! - Đệ tử nghe rõ rồi!

Này hoàng hậu Mạc Lợi! Trong thế gian này, hạng phụ nữ có tính tình hung hãn, dữ dằn, dễ dàng nỗi cơn thịnh nộ như trường hợp thứ nhất; nhưng họ lại có đức tin, có tâm tạo phước điền, biết bố thí vật thực, y phục đến cho sa-môn, bà-la-môn hay những kẻ cơ cực, đói nghèo.

Hạng nữ này còn có những đức tính tốt khác nữa, là họ không có tâm đố kỵ với những người nhiều lợi lộc; không ganh tỵ với những người được tán dương, khen ngợi, không tỵ hiềm đối với những người được sự cung kính, cúng dường. Ngoài ra, họ còn làm được nhiều việc đúng đắn, lành tốt khác nữa.

Hạng phụ nữ này, sau khi lâm chung thường được sinh vào những cảnh giới tốt đẹp; tuy nhiên, nếu sanh trở lại làm người thì sẽ rơi vào trường hợp thứ hai: Tuy thân sắc xấu xí nhưng lại được cao sang, phú quý, này hoàng hậu Mạc Lợi!

Biết được như vậy chúng ta hằng ngày phải siêng năng tinh tấn tu hành, kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động không chút lơ là. Ta phải biết áp dụng tu trong mọi hoàn cảnh, trong mọi lúc, mọi nơi nhiều người chỉ tu với Phật, Bồ tát siêng năng sám hối, tụng kinh niệm Phật. Nhưng đối với gia đình người thân, bạn bè và xã hội thì ăn thua đủ, tu như vậy là sai lời Phật dạy, sỡ dĩ chúng ta thờ Phật, lạy Phật mục đích với lòng tôn kính biết ơn, để ta bắt chước làm theo Ngài hầu chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Bố thí đúng chỗ sẽ được phước vô lượng
Bố thí hay giúp đỡ cho một phàm phu tuy vẫn có phước, nhưng phàm phu tục tử này không biết tu tập, sống trong tham lam, thù hận, si mê, một ngày sống của họ dính mắc vào chuyện trần tục quá nhiều, chính vì vậy người bố thí được hưởng phước trong hạn chế.

Ngược lại, cúng dường cho bậc Thánh đã giác ngộ, giải thoát phúc đức của các Ngài không gì có thể sánh bằng. Các Ngài luôn sống vì mọi người, tùy duyên giáo hóa giúp đỡ chúng sanh không biết mệt mỏi, nhàm chán, nên người cúng dường hưởng được phước báo không giới hạn.

Nói như vậy, để những người tu hành phải biết ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình khi nhận sự cấp dưỡng của đàn-na tín thí mà ráng cố gắng tu hành cho đến nơi tới chốn. Tuy nhiên, ở đây chúng ta cần nhấn mạnh, không phải chỉ cúng dường cho người tu hành mà bỏ qua các đối tượng khác đang còn gặp nhiều khó khăn, bất hạnh. Người bố thí cúng dường vì tấm lòng từ bi rộng lớn, bình đẳng thương yêu mà giúp đỡ, an ủi sẻ chia tuỳ theo nhân duyên.

Thấy người tu hành chân chính thì cung kính cúng dường, thấy người hoạn nạn thì giúp đỡ sẻ chia, bố thí cúng dường như vậy thì phước báo vô lượng, vô biên. Từ bi, thương yêu tất cả chúng sanh là pháp yếu của đạo Phật, sẵn sàng chia sẻ hay nâng đỡ khi có nhân duyên, điều kiện.

Dù chỉ một lần bố thí, cúng dường với tâm bình đẳng, với tấm lòng chí thành thấy người đáng kính ta cúng dường, thấy người đang gặp khó khăn hoạn nạn ta giúp đỡ, sẻ chia với trái tim yêu thương và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống.

Chúng ta, ai cũng dễ thấy điều này, với một người có tâm keo kiệt bỏn sẻn, cho dù tiền bạc tài sản chất đầy kho, thà để hư mục chứ không dám đem ra giúp đỡ kẻ khốn cùng dù chỉ một bữa ăn. Có người nói tâm hà tiện và tâm tiết kiệm giống nhau, chúng ta cần phải nhận định cho rõ chỗ này. Tiết kiệm là biết tiêu xài đúng mức, không lãng phí xa hoa, xài đúng việc đúng chỗ. Còn bỏn sẻn, hà tiện là tâm không muốn chia sẻ cho ai, chỉ bo bo ôm giữ cho riêng mình.

Thế cho nên tiết kiệm và hà tiện rất khác nhau. một bên là chi tiêu đúng mức, phù hợp, một bên là keo kiệt , bỏn sẻn thà để hư mục chớ không đem ra giúp đỡ cho ai. Hoặc là bố thí xong rồi lại khởi tâm tiếc rẻ, đó là nhân ích kỷ, tiếc của sẽ đưa đến quả đau khổ.

Tiết kiệm và rộng lượng bao dung, sẵng sàng nâng đỡ mọi người là nhân dẫn đến an vui, hạnh phúc. Là người Phật tử chân chính, chúng ta phải biết khôn ngoan sáng suốt chọn lựa nhân lành để mình và người cùng sống yêu thương mà không làm tổn cho tha nhân. Nổi mất mát, khổ đau nhất đối với người giàu có là không có con để kế thừa gia tài sự nghiệp, cho nên cả đời họ chỉ sống trong tham lam, ích kỷ. 

Người có nhiều cống hiến và phục vụ vì lợi ích chung, nhưng vì không nhận thức đúng đắn, bị vật chất lôi cuốn, cám dỗ, nên từ nhận thức tốt đẹp, bị lòng tham muốn sai sử làm điều phi pháp. Đối với luật pháp thế gian hay luật nhân quả cũng vậy, có công thì được thưởng, có tội thì phải bị trừng phạt.

Người ta thường nói, ăn thì hết cho thì còn có nghĩa là khi mình giúp đỡ ai đó mới chính là ta tích luỹ phước báo, giống như người gửi tiền ngân hàng thấy dường như không có tiền nhưng khi cần xài thì rút ra. Lão triệu phú đó vì không tin sâu nhân quả nên hiện đời không gieo trồng thêm phước đức, cho nên sau khi chết phải bị đoạ vào chỗ khốn cùng.

Cúng dường cho người tu hành chân chánh tại sao có phước báo lớn lao như vậy? Bởi vì người tu hành chân chánh họ luôn làm điều “tốt đạo đẹp đời” tất cả vì lợi ích cho tha nhân, không vì quyền lợi riêng tư, cho nên người phát tâm cúng dường cho bậc giác ngộ, giải thoát được phước báo gắp trăm ngàn lần so với người phàm phu tục tử.

Bố thí cho người bình thường, một ngày sống của họ là một ngày tham lam, si mê, thù hận, nên giá trị phước báo có giới hạn. Nhưng không lẽ vì phước báo có giới hạn mà ta ngoãnh mặt làm ngơ đối với những mãnh đời bất hạnh, ta tìm kiếm đối tượng để cúng dường như vậy sẽ dẫn đến tâm không bình đẳng cúng dường, bố thí như vậy còn có tâm phân biệt ta người.

Trong kinh Tứ Thập Nhị chương, Phật dạy: “Bố thí cho một trăm người dữ ăn, không bằng bố thí cho một người hiền; bố thí cho một trăm người hiền, không bằng bố thí cho một người biết giữ năm giới; bố thí cho mười ngàn người biết giữ năm giới, không bằng bố thí cho một người đã chứng quả không thoái chuyển. Cúng dường cho trăm ức vị Bích Chi Phật, không bằng cúng dường cho một vị Phật hiện tiền”. 

Ở đây chúng ta thấy cúng dường cho người tu hành chân chính thì phước báo lại tăng lên gấp nhiều lần. Nhưng có kinh đức Phật lại dạy bố thí phải bình đẳng. Cũng là lời Phật dạy, tại sao có sự khác biệt với nhau như thế? Vậy kinh nào đúng, kinh nào sai? Đã là lời dạy của Phật thì chân lý không có đúng sai, đức Phật chỉ tùy bệnh cho thuốc, tùy theo trình độ căn cơ của từng người mà đức Phật hướng dẫn cách bố thí cúng dường cho phù hợp.

Người mới phát tâm học đạo, chưa hiểu nhiều về đạo Phật, Thế Tôn khuyên nhủ lánh xa bạn ác gần gũi bạn lành nên trong sự bố thí cúng dường cần có sự chọn lựa. Sau khi hiểu và thông suốt lời Phật dạy, chúng ta sẽ tùy duyên bố thí và cúng dường không phân biệt thân sơ, ta, người. Sở dĩ trong kinh nói rõ ràng cúng dường như thế nào để được phước báo nhiều hay ít là cốt ở sự thành tâm. Đối với người chưa thấm nhuần đạo lý thì việc làm phước cần phải lựa chọn tùy theo sở thích của mình, không có ranh giới bắt buộc nhất định. 

Bố thí hay giúp đỡ cho một phàm phu tuy vẫn có phước, nhưng phàm phu tục tử này không biết tu tập, sống trong tham lam, thù hận, si mê, một ngày sống của họ dính mắc vào chuyện trần tục quá nhiều, chính vì vậy người bố thí được hưởng phước trong hạn chế.

Ngược lại, cúng dường cho bậc Thánh đã giác ngộ, giải thoát phúc đức của các Ngài không gì có thể sánh bằng. Các Ngài luôn sống vì mọi người, tùy duyên giáo hóa giúp đỡ chúng sanh không biết mệt mỏi, nhàm chán, nên người cúng dường hưởng được phước báo không giới hạn.
 
Pháp thoại ngắn này, giúp cho chúng ta càng tin sâu nhân quả hơn vì biết rõ ràng muốn giàu có nhiều tiền của thì phải bố thí cúng dường, muôn thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm thì ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng trong mọi hoàn cảnh. Nhìn thấy quả trong hiện tại xấu hay tốt thì ta biết mình nằm trong hoàn cảnh nào mà ráng cố gắng sửa sai, tích luỹ thêm phước báo nhằm chuyển hoá quả xấu ác mà ta đã lỡ gây tạo.

Tác hại của sự nóng giận
Đã làm người trong trời đất ai không từng nóng giận? Nóng giận là thói quen xấu từ sự chấp ngã mà ra, thấy mình là ta, là trung tâm của vũ trụ, cho nên tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh tâm sân hận, oán giận thù hằn rồi tìm cách trả đũa lại. Từ đó làm khổ gia đình người thân, làm tổn hại cho nhân loại cho nên bị quả báo thân hình xấu xí, đen đúa, khó coi, hay bị mọi người khinh chê, coi thường.

Tại sao nóng giận lại bị nghiệp quả nặng nề như vậy? Bởi khi nóng giận mặt mày nhăn nhó khó coi, trông dữ tợn, có khi mặt mày đỏ bừng lên, bừng bừng sát khí. Khi nóng giận, ta cảm thấy khốn khổ đau đớn vằn dặc trong tâm, vì mình chưa hại được ai, nhưng chính mình cảm thấy bất an ray rứt trong lòng nên tràn ngập nổi khổ khổ đau.

Khi nóng giận thì có thể dẫn đến hành động nạt nộ, chửi mắng, đánh đập hoặc vì sự nóng giận cao độ không dằn được, có thể dẫn đến hậu quả như giết người, hoặc làm những việc phi pháp khác, bởi do ta không kìm chế được cơn sân hận.

Nóng giận thường làm cho ta khổ đau trong hiện tại và mai sau làm cho người khác đau khổ, cho nên bị quả báo làm người xấu xí, bệnh tật là vậy đó. Trong gia đình, nếu cha mẹ hay thường xuyên tranh cãi không ai biết nhường nhịn, chồng nói vợ không nghe, con cái không vâng lời cha mẹ ai cũng bảo vệ ý kiến cho mình là đúng nên dẫn đến bất an mất hạnh phúc.

Có nhiều gia đình đang sống ấm êm hạnh phúc, chỉ vì sự nóng giận mà làm cho tan nhà nát cửa, vợ con khốn khổ. Do đó, nhà Phật chỉ rõ cho chúng ta biết nhân nóng giận sẽ dẫn đến hậu quả khổ đau trong hiện tại và đời sau bị quả báo xấu xí, bệnh tật.

Nếu ai nóng giận quá mức thì sau khi chết sẽ bị đọa lạc vào các loài súc sanh như rắn, gà, cá, sói, beo, cọp. Những loài này không biết thương yêu nhau, khi gặp nhau thường đấu đá, xâu xé giết hại lẫn nhau, nguyên nhân chính cũng vì nóng giận mà ra.

Bởi do tập nghiệp thói quen sân hận quá mạnh nên phải sanh vào các loài súc sinh như thế để ăn nuốt lẫn nhau. Chúng ta còn đầy đủ duyên phước được sanh trở lại làm người, nhưng bị quả báo thân thể xấu xí, khó coi, ốm yếu tật nguyền. Bởi khi nóng giận trước tiên sẽ làm cho mình khổ đau trước, rồi mới làm cho người khổ đau theo.

Có một câu chuyện kể về một bà mẹ mang thai được bảy, tám tháng, do người chồng mê muội đắm say nữ sắc đi theo vợ bé, cô vợ này tức tối quá, nỗi lên cơn ghen ghét nguyền rủa chửi mắng, la hét người chồng quá thậm tệ. Sau đó, cô ta bỏ về nhà cha mẹ ruột ở.

Đến ngày khai hoa nở nhụy, cô sinh ra một đứa bé kháu khỉnh, nhưng chỉ vài ngày sau, đứa bé này chết mà không có triệu chứng bệnh tật. Các bác sĩ mới tìm hiểu nguyên nhân vì sao đứa bé chết. Sau khi khám nghiệm đủ mọi cách vẫn không tìm ra lý do, đến khi bác sĩ xét nghiệm máu, mới phát hiện đứa bé chết do nhiễm độc tố từ người mẹ. Bởi khi nóng giận quá mức, những độc tố trong người tiết ra ngấm vào máu, ảnh hưởng đến bào thai, khi đứa bé ra đời được bú sữa mẹ nó lại bị nhiễm độc từ sữa và bị chết.

Qua câu chuyện trên đã cho ta một bài học quý báo của cuộc đời về hậu quả của sự nóng giận, cho nên khi người nữ mang thai cần phải hết sức bình tĩnh, không nên sân hận quá mức, bởi nhân nóng giận rất tai hại, có thể làm hại bản thân mình và hại cho con của mình. Không những khi mang bầu, mà bất cứ khi làm việc gì chúng ta cũng nên bình tĩnh quán xét, ngăn ngừa cơn nóng giận, vì nó còn dẫn đến tình trạng làm tăng huyết áp, gây hại cho tim mạch, có người do nóng giận mà bị tai biến mạch máu não dẫn đến chết người.

Ngoài ra, cơn nóng giận còn dẫn đến nhiều nguyên nhân như nằm ngủ mơ thấy ác mộng, thấy cảnh binh đao, tàn sát, giết hại lẫn nhau… làm cho mình sợ hãi, buồn bực khốn đốn, sống trong thực tại không được an ổn, không được hạnh phúc.

Bởi do nhân nóng giận có thể gieo ân oán hận thù cho người, cho nên lúc nào mình cũng lo lắng sợ bị trả thù. Từ đó, cuộc sống của ta luôn mang tâm trạng sợ hãi, bất an. Do vậy, đời nay con người sinh ra có nhiều sự sai biệt là do ta gieo nghiệp bất đồng với nhau.

Có người thì giàu sang sung sướng, hưởng đầy đủ phúc lạc. Có người nghèo khổ bệnh hoạn đau yếu. Có người sống thọ, có người chết yểu. Có người đẹp, có người xấu, có người đen, có người trắng, có người cao, có người thấp… Tất cả sự khác biệt như thế là bởi vì chúng ta gieo tạo nghiệp tập nhân quả khác nhau.
Nhà Phật dạy chúng ta rằng, muốn chuyển hóa những sân hận, si mê của mình, chúng ta phải thường xuyên quán từ bi, quán tình thương, thấy ai cũng là người thân, người thương của mình, do đó mà ta chuyển hoá được cơn nóng giận.

Giáo lý nhân quả rất quan trọng và thiết thực, người Phật tử chân chính cần phải am tường, thấu rõ và tin tưởng vào nhân quả để hành trì tu tập, dấn thân làm việc phục vụ tha nhân không biết mệt mỏi, nhàm chán bằng trái tim hiểu biết.

Còn khi gặp chướng duyên nghịch cảnh đến thì ta phải biết tự an ủi, tự tu tập để chuyển hoá mà vượt qua những bất hạnh trong cuộc đời. Ta phải tự chiêm nghiệm và tin tưởng sâu sắc những lời Phật dạy mà cố gắng bền bỉ, tinh tấn tu hành. Đó là con đường tươi sáng và tốt đẹp để chúng ta tiến dần đến quả giác ngộ và giải thoát hoàn toàn nhờ thấu hiểu nhân quả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5220)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8006)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6146)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5628)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4266)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9184)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7047)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]