Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vu Lan Ý Niệm Hạnh Hiếu Trong Tôi

10/08/201101:24(Xem: 7261)
Vu Lan Ý Niệm Hạnh Hiếu Trong Tôi
tuyentapvulan-03

VU LAN Ý NIỆM HẠNH HIẾU TRONG TÔI
Thích Tâm Mãn


Thángbảy năm nay trời Tây nguyên như quay về lối cũ, mưa nhiều, nắng ít, mâygiăng, gió đùa, từng giọt lạnh, lạnh đến buồn, đúng như những gì gọi làtiết trung nguyên. Tôi ở xứ Tây nguyên trong suốt khoảng trời thơ dại, bao kỷ niệm vui buồn của tháng ngày mưa nắng, vốn đã vắng lạnh rồi, nay bỗng chợt về vào những lúc chiều mưa, tháng bảy Vu Lan, tháng thương yêu, tháng nhớ nhất, tháng mà hầu hết mọi người đang dành hết tâm tình của mình để gửi mẹ thân yêu.

Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa,mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan. Tôi chợt nhận ra một điều, Đức Thích Già Mâu Ni, Ngài là người thành trẻ mồ côi rất sớm, nên Ngài hiểu thế nào là nổi buồn mất mẹ và nổi nhớ thương vô bờ của những người ít may mắn không còn có mẹ hiền để được thương yêu.

vulanbaohieu

Vì vậy Đức Phật thuyết Kinh Vu Lan Bồn hay Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, những lời trong Kinh, nếu chúng ta lắng tâm quán tưởng sẽ nhận ra rằng, đây là những lời bộc bạch chân tình của một bậc Chí Tôn đại hiếu đang diễn tâm mình khi nhớ về mẹ thương.

Lời của tình thương, lời của chân thành và lòng nhớ mẹ không có gì có thể so sánh được, kết thành chân lý của yêu thương, khuôn vàng của hiếu đạo, để mãi ngàn đời khi nhắc lại, mọi người lại chung một niềm thương, nếu như có một ngày nào đó những lời yêu thương này không còn có người đọc tụng và không ai còn thương cảm nữa, tôi tin chắc rằng ngày đó thế giới của loài người không còn có tương lai.

Qua tất cả những lời kinh trong Đại Lễ Vu Lan, Đức Phật chỉ nói về công ơn cha mẹ và làm sao để đáp đền công ơnđó, thiết nghĩ nếu không phải là một người con chí hiếu, không phải là một người nhớ mẹ bao la, thì làm sao đầy đủ ngôn từ cũng như diệu trí đểdiễn tả cho hết chân tình của mẹ, tình thương của mẫu từ và công ơn cựcnhọc của hai đấng sanh thành nuôi nấng con thơ: “mẹ sanh con cưu mang mười tháng, cực khổ nhường gánh nặng trên vai, uống ăn chẳng đặng vì thai, cho nên thân thể hình hài kém suy...”.

Ngày còn để chỏm đi theo thị giả thầy tôi đi cúng, mỗi khi nghe thầy tôi đọc đến câu thỉnh “Thế Tôn Tam Giới chủ, đại hiếu Thích Ca văn, trần kiếp báo thâm ân, tích nhơn thành chánhgiác…” (Đức Thế Tôn giáo chủ của ba cỏi, Ngài đại hiếu Thích Ca, trãi qua bao nhiêu kiếp báo thâm ân, đầy đủ nhơn lành nay thành Phật), tôi lại có suy nghĩ, hồi giờ chẳng phải Đạo Phật thường gọi Ngài đại hiếu Mục Kiền Liên rồi sao? làm gì có nghe Đức Phật Thích Ca cũng là Đại Hiếu!

Rồi tháng ngày thơ ấu cũng theo ông trờigià về với phương xa, bao nỗi thắc mắc bâng quơ của tôi dần dần có lời phúc đáp, tôi bắt đầu đi học và có nhân duyên được tiếp xúc tụng đọc, học hỏi các bộ kinh Đại thừa Giáo nghĩa cũng như Tiểu thừa Giáo nghĩa.

Như: Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Báo Ân, Kinh Tâm Địa Quán, Kinh Địa Tạng, Kinh Vu Lan, Kinh Báo Hiếu, Kinh Hiền Ngu, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Trường A Hàm, Kinh Bổn Sự, Kinh TươngƯng, Kinh Lục Phương Lễ, Kinh Đại Tập.v.v...đâu đâu cũng thấy hình dánggương hiếu hạnh của chư Phật, thời quá khứ cũng như hiện tại, nơi nào cũng nghe Phật thuyết về báo hiếu trọng ân. Như vậy mới biết thế nào là “trần kiếp báo thâm ân” thấm thía câu “Tích nhân thành chánh giác”.

Tôi dần dần như hiểu được chút gì đó “Tâm Hiếu là tâm Phật” và thoáng ngộ ra rằng “Hạnh hiếu là hạnh Phật”. Bởi vì chưa có một vị Phật nào có thể thành Phật mà không phải là một bậc đại hiếu tử, và cũng không có một vị Phật nào chưa hành trì thành tựu được pháp môn Hiếu hạnh mà có thể viên thành được quả vị Đại Hùng Thế Tôn. Trong Kinh Hiền Ngu Phật dạy: “Công đức hiếu thuận cha mẹ thù thắng khôn lường. Nhờ công đức này trên làm Thiên đế, dưới làm Thánh vương cho đến thành Phật, được ba cõi tôn kính đều là do phước đức này vậy”.

Vậy nên cha mẹ là Phật, là nhân duyên thù thắng nhất để đưa chúng ta đạt tới quả vị vô thượng bồ đề, cho nên trong Kinh Đại Tập có câu: “Gặp thời không có Phật, khéo phụng thờ cha mẹ tức là phụng thờ Phật vậy”.

Gương hiếu của Phật, hạnh hiếu của Phật,lời Phật dạy về đạo hiếu làm cho tôi thêm nhiều cảm nhận, nhận thấy sâusắc hơn thâm ân của cha mẹ, cảm nhận được nhiều sự khó nhọc của song thân, để rồi biết nhớ ơn, để rồi nguyện đền đáp, để rồi thầm phát nguyện, phải làm như thế nào để khỏi phải thẹn mình là con của Đức ThíchTôn, vì Ngài đã làm tất cả những gì có thể làm, nhưng vẫn cho rằng, không cách nào để trả hết thâm ân trời biển của hai đấng sanh thành.

Trong Kinh Tăng Chi Phật dạy: “Có hai hạng người, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếumột bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm như vậy suốt trăm năm cho đến trăm tuổi. Nếu đấm bóp, tắm rửa, và dầu tại đấy, họ có vãi đại tiểu tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha”.

Nếu bảo làm như lời Phật dạy trong Kinh Trường A Hàm: “Cúng dường đầy đủ đừng có thiếu thốn; phàm làm việc gì trước phải thưa cha mẹ; cha mẹ có làm, kính thuận chẳng nghịch; chánh lịnh cha mẹ, chẳng dám chống trái; cha mẹ có làm, chánh nghiệp chẳng dứt” tôi không còn cơ hội nữa, mẹ tôi không còn và tôi đã là kẻ xuất gia, không còn thường lui tới nhà mình.

Nếu phải như làm đúng theo lời Phật dạy trong Kinh Lục Phương Lễ: “Phải lo sanh kế; dậy sớm dâng cơm nước cho cha mẹ kịp thời; không nên làm cha mẹ thêm lo; phải nhớ ơn cha mẹ; khi cha mẹ có bệnh, phải lo sợ, chạy chữa kịp thời”, điều này tôi xin nhườnglại cho tất cả những người con cư sĩ hiếu hạnh tại gia, và tự mình cuốiđầu kính lễ họ, vì mình không đủ nhân duyên và diễm phúc để thực hành hạnh lành này.

Chúng tôi những người xuất gia nên nhất tâm phụng hành lời Đức Phật dạy trong Kinh Tăng Chi: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, đồ ăn, tiền bạcthì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào bố thí; đốivới cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha, là chân thật báo ân”. Điềunày tôi hằng nguyện làm và nhất tâm cố gắng, để có chút gì đó là học hạnh Như Lai.

Điều mà tôi thường làm, cũng như cố gắnglàm và nhất tâm làm, khuyên người khác cùng làm để có chút gì đó nói lên tâm nguyện báo đáp thâm ân của Phật, cũng như cha mẹ, đó là làm theolời Phật dạy trong Kinh Vu Lan Bồn: “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngày Tăng tự tứ, thiết lễ cúng dường mười phương chúng Tăng. Nguyện cho cha mẹ hiện đời phước thọ tăng long, cha mẹ bảy đời thoát khổ ngạ quỷ, được sanh vào trời người hưởng phước lạc vô cùng”.

Tôi lại nhớ một câu tâm huyết nhất và cũng là niềm tin là kim chỉ nam trên bước đường học Phật, đó là câu Đức Phật dạy trong Kinh Nhẫn Nhục: “Điều thiện cao tột không gì hơn hiếu”. Tôi hiểu hiếu là pháp tối thắng nhất, là hạnh lành thánh thiện nhất, là pháp môn cao tột nhất, là con đường quang minh nhất, là bậc thang căn bản nhất để cho tất cả những ai có tâm nguyện bước lên quả Thánh và Đại Hiếu là quả vị thánh thiện nhất trong thanh tịnh vô biên Pháp giới của Chư Phật.

Vu Lan Báo hiếu lại về với những người con hiếu hạnh, tâm hiếu hành từ lại được thức tỉnh trong mỗi trái tim, ta phải làm gì để tỏ lòng hiếu hạnh, mọi người nên chí thành vâng lời Phật dạy thực hành theo Pháp Vu Lan Bồn, học theo hạnh hiếu Mục Liên TônGiả, Ngài đã dùng pháp này mà cứu được mẫu thân. Có làm như vậy, có tinnhư vậy và có tâm như vậy thì tin chắc rằng phụ mẫu trong hiện tại hay trong quá khứ của tất cả chúng ta nếu còn sanh tiền thì đầy dủ phước báonếu đã vãng sanh, đều được siêu thoát như trong Kinh Vu Lan Phật dạy.

Thích Tâm Mãn (Chùa Minh Thành Pleiku)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16007)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3694)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6064)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6262)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3970)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8306)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5585)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15575)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10804)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7895)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]