Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đám cưới tại một ngôi chùa và hướng đến mở rộng cuộc lễ nhiều ý nghĩa

24/07/201102:09(Xem: 8134)
Đám cưới tại một ngôi chùa và hướng đến mở rộng cuộc lễ nhiều ý nghĩa

ĐÁM CƯỚI TẠI MỘT NGÔI CHÙA
VÀ HƯỚNG ĐẾN MỞ RỘNG CUỘC LỄ NHIỀU Ý NGHĨA

Minh Thạnh

damcuoiochuaNgày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này.

Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.

Sư cô Tịnh Nguyện lúc đó là một cử nhân văn khoa đã cùng với nhiều vị Tăng ni tân học sớm thấy điều bất hợp lý đó.

Tại sao khi bị nguy khốn, nạn tai thì người ta mới đến chùa (xin lễ cầu an), hay có việc buồn, tang chế thì mới đến chùa làm tang lễ, cầu siêu cúng thất, còn những dịp lễ vui vẻ và quan trọng của đởi người như hôn lễ chẳng hạn thì nhà chùa lại không có vai trò gì? Tại sao những lời dạy của đức Phật về cuộc sống gia đình, truyền thống chúc phúc của nghi lễ Phật giáo lại không thể áp dụng cho hôn lễ? Tại sao thân bằng quyến thuộc, thiện hữu có thể tề tựu cùng nhau ở chùa để ăn giỗ, ăn cúng thất của người chết, mà không thể tề tựu ở chùa để ăn đám cưới?...

Những vấn đề đó đã làm nặng lòng những vị Tăng ni bước đầu vào đạo trên con đường chấn hưng Phật giáo. Và sư cô Tịnh Nguyện gần 50 năm trước đã quyết tâm góp phần vào cuộc cải cách này.

Là trụ trì của một tự viện mới xây còn chưa ổn định, nhưng điều đó đã không ngăn cản được Sư cô thúc đẩy việc tổ chức đám cưới ở chùa cho các Phật tử. Những vấn đề khó khăn trên được giải quyết bằng việc tổ chức đám cưới ở những ngôi chùa lớn thay vì ở ngôi chùa Phước Hải khi đó còn đơn sơ, và thỉnh các vị đại Tăng làm chủ lễ, còn Ni cô chỉ là người lo công tác “hậu cần”, khâu tổ chức.

Một Phật tử, vừa là đệ tử, vừa là bạn đồng học của Ni trưởng Tịnh Nguyện kể lại: “Đám cưới của tôi được Ni trưởng Tịnh Nguyện tổ chức tại chùa Xá Lợi năm 1964. Ni trưởng khi đó lo hết tất cả phần chuẩn bị, nghi lễ. Hai họ chỉ đến dự dưới sự hướng dẫn của Ni trưởng. Chủ lễ là hai vị Thượng tọa. Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, thành kính trong sự hiện diện đông đủ của bà con hai họ. Sau khi rước dâu, vị mặc áo Veston, vị mặc áo dài khăn đóng cùng nhau quỳ xuống lạy Phật với cô dâu chú rể, cùng nhau nghe Kinh Thiện Sinh, kinh Chúc phúc”.

Hôn lễ được tổ chức ở chùa đã đánh dấu một bước tiến lớn trong quá trình “đem đạo vào đời”. Đời ở đây là cuộc đời của đôi thanh niên vừa làm lễ thành hôn.
Bên cạnh ông bà, tổ tiên, quyết thuộc hai học, bạn hữu… Đức Phật và chư Tăng ni đã có mặt trong lễ cưới của họ, chứng minh ước nguyện thành gia thất của họ. Lễ cưới thêm phần giá trị tâm linh, thiêng liêng, còn không khí nhà chùa thêm phần sinh động.

Ngày xưa, nam nữ yêu nhau thì “thệ hải minh sơn”, hay “Vầng trăng vằng vặc giữa trời, đinh ninh hai miệng một lời song song” (Truyện Kiều). Thì ngày nay, hai bên nam nữ thành gia thất, nghe đọc lại lời Phật dạy, thề nguyện sống với nhau trọn đời trước mặt Đức Phật và chư tăng ni, là kế thừa truyền thống thệ nguyện thiêng liêng của dân tộc từ ngàn xưa để lại.

Nó xuất phát từ tâm nguyện của mỗi người trên bước đường thành gia thất. Chỉ có điều ngày xưa ông bà ta thề trước biển, trước núi, dưới trăng sáng, dưới trời cao, thì nay đôi uyên ương thề nguyện giữa chính điện.

Nó hoàn toàn khác và không phải bắt chước quan điểm “Sự gì mà Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không thể phân chia”. Ở đây, Đức Phật không là người kết hợp, Ngài chỉ là tượng trưng cho sự “công chứng” trên tinh thần dân chủ, tự nguyện, tiến bộ.

Việc “kết hợp” là do ở đôi bên nam nữ tự định đoạt, tự xác quyết ý nguyện và cam kết trước sự chứng minh của Đức Phật và chư vị Tăng ni. Yếu tố thiêng liêng trong lễ cưới ở chùa là thụ động (vì chỉ là sự chứng giám chúc tụng), nhưng nó nâng cao vai trò chủ động của con người, chứ không phải vâng theo sự kết hợp của đấng thần linh hay thượng đế nào con người buộc phải chấp nhận.

hangthuan3_939860872

Vị Phật tử đó kể tiếp: “20 năm sau, lễ cưới cho trưởng nữ của gia đình lại được Ni trưởng Tịnh Nguyện lại đứng ra tổ chức tại chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, quận 1, dưới sự chủ lễ của Hòa thượng Thích Quảng Thạc”.

Dù đã là một Ni trưởng trụ trì, Ni trưởng vẫn khiêm cung, không tự mình làm chủ lễ thành hôn, mà cung thỉnh một vị hòa thượng. Ni trưởng cũng làm như thế với không biết bao nhiêu lễ thành hôn khác. Có điều trong những buổi lễ thành hôn đầu tiên, hai họ chỉ đến làm lễ không dùng cơm trưa thân mật tại chùa, thì đến những lễ cưới, sau nhà chùa là nơi hai họ dùng bữa cơm chay thanh tịnh sau khi hoàn mãn. Buổi tiệc trưa chay bên cạnh tiệc chính vào buổi chiều làm cho tình đạo càng gắn bó những người Phật tử với nhau hơn.

hangthuan2_432336155

Lễ hằng thuận tại chùa Lý Triều Quốc Sư (Hà Nội)

Đến năm 2006, lễ cưới của thứ nam gia đình nói trên được tổ chức tại chùa Phước Hải – nay đã xây dựng uy nghi. Buổi lễ được tổ chức dưới sự hướng dẫn của thầy Thích Lệ Trang – vị Thượng tọa nổi tiếng về nghi lễ.

Số đám cưới được tổ chức ở chùa theo thời gian đông dần. Lễ cưới tại chùa lần này, theo nhận xét của các bạn trẻ tham dự là một nét độc đáo trong lễ cưới hiện đại tại Việt Nam.

Nếu vẫn chỉ có đưa dâu đón dâu, làm lễ gia tiên rồi tối dự tiệc thiết đãi ở nhà hàng, thì đám cưới sẽ đơn điệu như bao nhiêu đám cưới khác. Ở đây, những người dự lễ cùng nhau đến chùa, lạy Phật, nghe kinh rồi cùng nhau thưởng thức các món ăn chay thanh tịnh tiết mục của lễ cưới được bổ sung, giá trị văn hóa trong đám cưới được nâng cao.

Mọi người đều cảm thấy một tương lại bình an và xán lạn cho gia đình mới dưới sự gia hộ của chư Phật và sự chú nguyện của Tăng ni.

hangthuan1_318847672

Lễ cưới tổ chức ở chùa được gọi bằng cái tên rất hay là “Lễ Hằng thuận”. Hai từ này gợi cho ta nhớ đến 10 nguyện của đức Phổ Hiền trong nguyện “Tùy thuận chúng sinh”, nói lên tâm nguyện đem đạo vào đời. Đồng thời nó cũng làm ta liên tưởng đến đạo đức truyền thống của dân tộc: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.

Lễ cưới ở chùa theo hoài bão của Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải là sự kết hợp các giá trị truyền thống dân tộc với các giá trị đạo đức Phật giáo. Đây không phải là vấn đề hướng ngoại mà là khám phá tại chính mình, tìm về với nguồi cội tâm linh.

Đoàn xe hoa chạy vào cổng chùa cũng có thể coi là biểu tượng “đem đời vào đạo”, nhưng “đời” ở đây mang giá trị tích cực, nhưng nào đâu có phải đem, vì “đời” thực ra đã có mặt ở trong đạo lâu rồi, ngay trong lời kinh Thiện Sinh mà đức Phật đã dạy.

Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)
Ý kiến bạn đọc
13/11/201512:06
Khách
Thì ra Luật xưa cũng đã sửa sửa thành mới
14/07/201503:36
Khách
mình xưa nay theo quan niệm xưa....hôm nay mới thấu hiểu....xin lỗi sư phụ rất nhiều.....con xin sám hối vơi ngài,.....
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6360)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6390)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5531)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3859)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3949)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4725)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4732)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5108)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5248)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6537)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]