Propertius cho rằng: “Khi yêu ai cũng mù quáng”; Albert Camus thì nhẹ nhàng hơn: “Tình yêu thường làm cho con người mù quáng”. Nhận xét này đúng với số đông và dường như đi ngược lại với “chánh niệm” - một pháp tu nền tảng của Phật giáo. Bởi chánh niệm luôn đòi hỏi sự tỉnh giác - tỉnh táo và xả ly - không bám giữ.
Từ điển Làng Mai định nghĩa: Chánh niệm là năng lượng giúp ta có mặt thật sự trong giây phút hiện tại và nhận diện được những gì đang xảy ra tại đây, trong giây phút ấy. Năng lượng này nếu được duy trì sẽ làm phát sinh ra năng lượng chuyên chú, tập trung của tâm ý vào một đối tượng được lựa chọn, gọi là chánh định. Năng lượng chánh định nếu đủ hùng hậu sẽ giúp ta khám phá được thực chất của đối tượng. Có được năng lượng chánh niệm ta thật sự có mặt trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày và sống được sâu sắc những giây phút ấy. Chánh niệm giúp ta tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm trong ta và xung quanh ta, những gì có khả năng nuôi dưỡng, trị liệu và chuyển hóa tâm thức. Cho nên có thể nói, chánh niệm là trái tim của thiền tập.
Hầu như ai cũng nhận thấy tình yêu và nỗi đau là hai mặt của một thực thể. Ballev cho rằng: “Tình yêu là nguồn vui ngọt ngào nhất và là sự thống khổ dã man nhất”. J. Chardonnes nhận thấy: “Chỉ có người ta yêu nhất mới có thể làm ta đau khổ nhất”. Thậm chí, Homere khẳng định: “Thương yêu càng nhiều thì thù oán càng sâu”. Phải chăng, trong tình yêu, vẫn còn một cái gì đó “trục trặc”, một cái gì đó chưa thực đúng để cả hai có thể nếm trải được trọn vẹn mật ngọt mà không nhằn nhằm trái đắng? Và, câu trả lời có lẽ đã rõ ràng như trong câu nói của Propertius và A.Camus: sự mù quáng - thiếu chánh niệm!
Yêu người hay yêu ta?
Sức mạnh của sự cuốn hút, sự đắm say giữa người nam và người nữ là điều khó cưỡng. Do đó, không lạ gì khi sự thiếu lý trí trong tình yêu trở nên một hiện tượng phổ biến. J.F.Regnard cho rằng: “Khi tình yêu muốn lên tiếng thì lý trí phải nín lặng”. Chính sự “nín lặng” của lý trí đã dẫn đến những đau khổ, phiền toái trong tình yêu.
Thử tưởng tượng, nếu bạn yêu thương một người nào đó song họ không yêu lại bạn mà đi yêu một người khác, thì tình yêu đó có thực sự trọn vẹn? Khi yêu, người ta luôn có ảo tưởng rằng người yêu phải thuộc về mình, là sở hữu của mình. Do đó, nhiều người cảm thấy ngột ngạt, mất tự do, thậm chí phẫn hận bởi chính tình yêu của mình.
Kinh A hàm thuật lại một câu chuyện khiến chúng ta suy ngẫm. Lần nọ, vua Ba Tư Nặc hỏi phu nhân Mạt Lợi: Trên đời này, ái khanh yêu ai nhất? Mạt Lợi đáp: Dĩ nhiên người đó chính là bệ hạ! Vua hoan hỉ lắm, nhưng rồi bà ngập ngừng: Thưa, nếu bệ hạ cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi một chút, xác thực hơn. Rằng người mà thần thiếp yêu nhất chính là… thần thiếp. Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên, không hiểu. Mạt Lợi giải thích bằng những câu hỏi: Vậy trên đời này bệ hạ yêu ai nhất? Thì là ái khanh, vua đáp. Vậy nếu thiếp lén bệ hạ đi yêu một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì? Thì… thì… ta sẽ… Dù hơi khó khăn, nhưng cuối cùng vua Ba Tư Nặc cũng thừa nhận là ông sẽ xử tử hoàng hậu! Hôm sau, vua Ba Tư Nặc đến trình chuyện với đức Phật. Phật xác nhận ý kiến của Mạt Lợi qua bài kệ: “Tâm ta đi cùng khắp. Tất cả mọi phương trời. Cũng không tìm thấy được. Ai thân hơn tự ngã… Vậy ai yêu tự ngã. Chớ hại tự ngã người”.
Như vậy, kẻ mà ta yêu nhất chính là tự ngã của mình. Vì yêu tự ngã nên mới có chuyện ta đòi xử trảm người ta yêu khi người đó không chịu yêu ta nữa. Nếu thực sự yêu người, thì ta có thể chấp nhận việc họ không yêu ta. Thiền sư Nhất Hạnh nói: “Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau”, hay: “Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực”. Do đó, không phải phi lý khi M. De Stael cho rằng: “Tình yêu thường chỉ là lòng ích kỷ ác nghiệt đến nỗi tự mình hủy diệt hạnh phúc người mình yêu”. Meilhan thì khẳng định: “Trên đời người nào yêu mà không mong được người yêu lại, người đó mới là người yêu thật lòng”. Gandhi cũng thừa nhận: “Tình yêu chân chính bao giờ cũng hiến tặng, không bao giờ đòi hỏi đáp đền”. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương người như thể thương thân…”
Khi ta thực yêu ai đó, thì ta không thể làm tổn hại người ta yêu. Ta phải biết nâng niu người yêu, phải biết tôn trọng người yêu - tôn trọng cả thể xác lẫn tâm hồn, và tôn trọng cả những ước mơ, chí nguyện chân chính của người ấy nữa. Có lẽ ta còn nhớ câu chuyện của ngài A Nan - vị thị giả Đức Phật. Ngài A Nan nổi tiếng học giỏi và đẹp trai. Một cô gái, do tiếp xúc với ngài, đã bị lưỡi sét ái tình giáng trúng. Cô đau khổ vô cùng. Nhờ sự giúp đỡ của mẹ, cô quyết dùng bùa chú để chinh phục cho bằng được vị tu sĩ đẹp trai ấy. Rất may, Đức Phật sớm quán biết sự việc nên cho người đến giải cứu. Ngài A Nan thoát nạn, song cô gái lại hết sức bất mãn. Cô quyết đến gặp Phật để “bắt đền”. Đức Phật khéo hỏi cô gái: Con yêu A Nan vì cái gì? Cô lúng túng, cố gắng trả lời, rằng con yêu A Nan vì ngài có đôi mắt đẹp, cái mũi cũng đẹp, cái miệng cũng đẹp… Đức Phật lần lượt chỉ cho cô thấy rằng cặp mắt, cái mũi, cái miệng… hay nói chung là cái thân tứ đại của ngài A Nan chỉ là tập hợp của nhiều yếu tố, mà toàn là những yếu tố… bất tịnh. Sau cùng, ngài hỏi một câu quyết định: Con nói con yêu A Nan, vậy con có yêu cái chí nguyện xuất gia của A Nan không? Đến đây thì cô gái tỉnh ngộ, sau đó cô xuất gia và tu hành chứng quả A La Hán!
Học cách yêu thương
Yêu thương một ai và nuôi dưỡng được tình yêu đó là cả một nghệ thuật. Và nghệ thuật đó cần phải học. Rất nhiều cặp tình nhân, sau một thời gian yêu nhau mặn nồng, đã tuyên bố chia tay vì một lý do hết sức đơn giản: không hiểu nhau. Ban đầu, trong cơn say nắng, tình yêu là một giấc mơ hồng. Nhưng rồi, khi cơn choáng váng đi qua, họ chợt bừng tỉnh và nhận thấy người yêu mình toàn những khiếm khuyết. Rằng anh hay em chỉ là một kẻ ích kỷ hay anh hay em chỉ yêu công việc chứ không thực sự yêu người thương của mình. Họ đã thiếu cẩn trọng khi đến với nhau, hay nói cách khác, tình yêu của họ vắng bóng chánh niệm, và việc chia tay là một điều dễ hiểu.
Chánh niệm giúp cho ta nhìn đúng bản chất của sự vật. Em hay anh cũng là một con người, với đầy đủ tất cả những khiếm khuyết, thậm chí những thói hư tật xấu. Không thể hời hợt, lầm lẫn khi nhìn nhận về người mình yêu, cũng như không đeo cặp kính hồng để thấy người ấy luôn luôn tuyệt vời. Cùng với từ bi và trí tuệ, ta có thể cùng với người yêu chuyển hóa được những cái xấu, nuôi dưỡng những cái tốt. Ta và người yêu không chỉ “cùng nhìn về một hướng”, mà còn biết “nhìn nhau” nữa - nhìn nhau trong thương yêu và chánh niệm. Bằng chánh niệm, ta sẽ có một cái nhìn mới mẻ, khác hẳn với cái nhìn thông thường. Hàng ngày, chúng ta do quá bận rộn chạy theo những tất bật của cuộc sống nên không thể sống trọn vẹn với người mình thương. Chánh niệm giúp ta có được sự chuyên chú, sâu sắc và bén nhạy. Nhờ đó mà ta biết người thương cần gì nơi ta, ta có thể giúp được gì cho người ấy. Sự vô cảm, thờ ơ và thiếu cảm thông là nguyên nhân làm cho tình yêu tàn lụi. Cho dù ta chỉ có một giây phút bên người ta yêu, nhưng đó là giây phút trọn vẹn, hơn là sống với nhau mấy chục năm mà không có sự lắng nghe, thấu hiểu, không thấy được sự “có mặt” của người ấy. Thiền sư Nhất Hạnh nói: “Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy quên tất cả. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức trong khi nắm tay, trong khi ôm”. Sự chuyên chú đó giúp ta hiểu được người yêu. Hiểu được người yêu, ta mới thực sự thương người yêu của mình, không làm cho người yêu đau khổ.
Chánh niệm cũng giúp cho ta nhận ra sự mong manh của vạn vật và trân trọng từng phút giây hiện hữu. Chánh niệm cũng giúp cho ta có thêm yêu thương, lòng từ bi đối với mọi người, mọi loài. Chánh niệm giúp cho tình yêu vững hơn. Mặc dầu vậy, có thể do một nguyên nhân nào đó, ta không thể cùng người ta yêu đi trọn con đường đời, thì ta vẫn có thể giữ được một mối quan tâm đúng mực, một tình thương yêu trong sáng. Rất nhiều người, khi yêu nhau thì rất đỗi mặn nồng, đến khi chia tay thì oán hận, lạ xa. Thiền sư Từ Đạo Hạnh có một bài thơ rất hay, nói về tính duyên khởi của Phật giáo, nhưng ta cũng có thể soi thấu vào những tình cảm yêu thương trai gái thế này: “Tác hữu trần sa hữu, vi không nhất thiết không” (Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không) - khi yêu, trong đôi mắt anh, em là tất cả; em hắt hơi là anh đã lo lắng, nói chi khi em bệnh, em cần. Còn khi không yêu, thì thế giới của em chẳng thuộc về anh, em có sống, có chết thì anh cũng không quan tâm, không còn chút trách nhiệm nào nữa! Đó là thói thường của những người yêu nhau, người thực tập chánh niệm không nên mắc phải!
Trong Phật giáo, có bốn yếu tố quan trọng để xây đắp và nuôi dưỡng tình yêu. Đó là từ, bi, hỷ, xả. Từ là khả năng ban tặng niềm vui. Yêu người, ta nhất định đem niềm vui đến cho người chứ không đem đến dằn vặt, khổ đau. Và bi, ta xót xa trước nỗi đau khổ của người ta yêu, tìm mọi cách để người ấy hết khổ. Hỷ, ta vui cùng người - tình yêu nhất thiết phải vui, không vui không phải là tình yêu đích thực. Nhiều người yêu nhau, sau một ngày làm việc căng thẳng và nhiều muộn phiền, gặp nhau, họ chỉ có thể trao cho nhau những bức bối, bực mình. Xả, ta không tìm mọi cách khiến người phải thuộc về ta; ta không tôn bản ngã của mình, buộc người phải giống như ta muốn - một khi người không theo ý ta, ta hờn, ta giận, thậm chí căm thù. Với xả, ta và người ta yêu không hai; nỗi đau hay niềm vui của người ấy cũng chính là của ta - một sự chia sẻ tột cùng!
Với bốn yếu tố này làm hành trang, ta có thể đem đến cho tình yêu một sắc thái mới: bao la, sâu sắc, trọn vẹn và vững bền. Đó mới chính là cuộc tình “thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”.
Thiền tập nuôi dưỡng tình yêu
Thượng tọa B. Seelawimala, sư trưởng của một tu viện tại London, là vị sư Phật giáo đầu tiên được hoàng gia vương quốc Anh mời dự lễ cưới của hoàng tử William và công nương K. Middleton. Thep tạp chí Shambhala Sun, nhân cơ hội này, ngài đã có vài lời khuyên chân thành đến với những đôi vợ chồng trẻ, rằng chìa khóa của hạnh phúc lứa đôi chính là thiền tập. “Trao đổi những khó khăn với nhau và cùng nhau thực tập thiền để thanh lọc những phiền não ra khỏi tâm thức”, ngài nói.
Thiền tập có công năng nuôi dưỡng tình yêu. Trong đó, chánh niệm chính là trái tim của thiền tập. Ai cũng biết chánh niệm sẽ đem đến niềm an lạc, hạnh phúc, không chỉ cho tình cảm yêu thương, mà cho tất cả các hoạt động sống. Dù vậy, để đạt được chánh niệm trong từng phút giây là điều không dễ. Chúng ta cần phải thực tập chuyên cần theo thời khóa và trong bất kỳ thời gian nào có thể. Bắt đầu từ hơi thở, chúng ta tập quan sát hơi thở của mình. Thở vào ta biết ta thở vào, thở ra ta biết ta thở ra - chú tâm vào hơi thở không xao lãng. Khi tâm xao lãng, chúng ta hãy kiên trì đưa tâm trở lại, không bực mình, và cũng không tham cầu.
Hiện nay, thiền trở nên phổ biến, và được biết đến như là một nghệ thuật sống. Để hiểu rõ kỹ thuật và thấm nhuần thiền tập, lý tưởng nhất là chúng ta hãy đến với những trung tâm thiền. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể học tập từ sách vở, từ những vị thầy. Trong bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu đến quý độc giả một vài hướng dẫn thực hành chánh niệm nhằm nuôi dưỡng hạnh phúc, tình yêu. Những bài thực hành này được trích dịch từ tập sách The Meditation Bible - A Definitive Guide to Meditations for Every Purpose của Madonna Gauding - một tập sách hướng dẫn thiết thực về thiền.
Thực hành 1: Tình yêu vô điều kiện
Hầu hết tình yêu của chúng ta là tình yêu có điều kiện - chúng ta muốn người mình yêu hành xử theo cách mình thích hoặc ủng hộ những định hướng của mình. Nhưng một tình yêu đẹp sẽ là một tình yêu vô điều kiện - ta yêu ai đó như chính bản thân họ là, bất kể họ làm gì đi nữa.
Tình yêu vô điều kiện nghe rất hay, nhưng để thực hiện được thì không dễ. Phương thức thiền này giúp bạn mở rộng con tim và từ bỏ những điều kiện mà bạn có thể đặt để trong tình yêu. Nếu bạn gặp rắc rối trong mối tương tác với người yêu, hay bạn đang cố gắng kiểm soát tình yêu của mình, phương pháp thiền này sẽ ít nhiều giúp bạn có được nhiều niềm vui và sự thăng hoa, giải phóng khỏi tự ngã để yêu thương mọi người, và giúp bạn tiến xa trên con đường tâm linh.
Chuẩn bị:Hãy nghĩ về những mối quan hệ tình cảm gần gũi nhất đối với bạn. Tự hỏi rằng liệu bạn có đặt những điều kiện trong tình cảm của mình hay không? Ví dụ, bạn có thấy tình yêu của bạn phụ thuộc vào việc người ấy có yêu lại bạn theo cách bạn muốn hay không. Nhận rõ rằng đây là điều kiện làm cho tình yêu bị tù túng, giới hạn.
Thực tập:
1. Hãy ngồi xuống, trên ghế hay trên bồ đoàn, trong không gian thiền. Chắc rằng bạn đang rất riêng tư. Bắt đầu bằng việc quán sát hơi thở và để cho thân, tâm thật tĩnh lặng.
2. Hướng tâm đến đối tượng mà bạn thương yêu. Liệt kê tất cả những điều kiện nào mà bạn đòi hỏi có thể làm cho tình yêu bị giới hạn. Ví dụ, có thể bạn thấy bạn yêu người ta bởi người ta làm ra nhiều tiền, người ta mua hoa tặng bạn vào những dịp đặt biệt hay người ta phục trang theo một kiểu nào đó. Lưu ý những điều kiện đó, trong khi có vẻ như là thiết thực và hợp lý, lại khép kín trái tim của bạn. Lưu ý rằng đó không phải là tình yêu, nhưng sao ta lại đòi hỏi nó phải có mặt?
3. Bây giờ bạn hãy hình dung rằng bạn đang trao cho người bạn yêu thương một sự tự do hoàn toàn và người ấy có thể làm bất kỳ điều gì mà người ấy muốn. Điều này liệu có làm cho bạn lo sợ, có khiến cho bạn buồn hay có thay đổi cảm xúc của bạn về người ấy? Hướng tâm bạn đến những phẩm tính của người ấy khiến bạn yêu thương. Có lẽ là bạn yêu cái nghị lực, khí phách và năng lực của người ấy khi người ấy đáp lại với tha nhân.
4. Tưởng tượng rằng người ấy không bên bạn hay sẵn sàng gặp bạn những khi bạn cần và bạn yêu thương họ bất kể thế nào. Cảm thấy trái tim bạn rộng mở vì bạn chấp nhận và thương yêu người ấy hết lòng, bất kể người ấy có làm hay không làm gì cho bạn.
Thực hành 2: Tình yêu và ái nhiễm
Như đã tìm hiểu trong phần thực hành trên, tình yêu chân thực sẽ không đặt ra bất kỳ điều kiện nào đối với người khác hay yêu cầu người khác phải làm gì đó để có được tình yêu của mình. Phương pháp thiền này giúp cho chúng ta khám phá đề tài như trên, song với đôi chút khác biệt, giúp chúng ta hình dung sự khác nhau giữa tình yêu và ái nhiễm, nhằm cải thiện mối quan hệ giữa ta và người ta thương yêu.
Ở đây, bạn sẽ tập phát hiện mối quan tâm chân thành từ một đối tượng không có thật. Trong tình yêu, chúng ta thường nhầm lẫn giữa sức cuốn hút tính giới và sự phụ thuộc trong tình yêu. Ta cũng thường tơ tưởng đến ai đó, thổi phồng những phẩm chất của họ và lầm lẫn nó với tình yêu. Trong trường hợp này, người mà bạn yêu không thực sự tồn tại và bạn thấy bạn đang luyến ái một ảo tượng.
Pháp thiền hành dưới đây sẽ hữu ích cho những người đang yêu.
Chuẩn bị: Viết về người mới ấy trong cuộc đời bạn, chú ý đến lý do tại sao bạn cảm thấy yêu người ấy.
Thực tập:
1. Ngồi xuống bồ đoàn hay trên ghế trong không gian thiền. Hít thở sâu trong vài phút. Bây giờ hãy nằm duỗi dài xuống nền trong tư thế thoải mái nhất.
2. Tưởng tượng rằng bạn đang nằm trên một bãi cỏ trong công viên. Chợt một con chim rất đẹp đậu xuống cạnh bạn. Thật tuyệt vời. Bạn chưa từng thấy con chim nào như thế bao giờ. Tim bạn tràn ngập nỗi hân hoan vì bạn thấy con chim đậu thật gần, nhìn bạn đầy vẻ tò mò. Bạn hiểu rằng con chim cũng hân hoan khi bên bạn. Nó ở với bạn trong một khoảng thời gian rất lâu. Bạn thấy giữa bạn với nó có một sự kết nối diệu kỳ. Chợt, một làn gió khuấy động và con chim biến mất vào lùm cây. Bạn thầm biết ơn rằng bạn đã có một sự đối diện ngẫu nhiên với một sinh linh tuyệt vời đến thế, và bạn hạnh phúc bởi nó đã hiện diện. Bạn cảm ơn khoảng thời gian mà cả hai đã cùng trải qua.
3. Đó là một trải nghiệm về tình yêu vô ái nhiễm. Hãy cố gắng gìn giữ điều này trong tâm khi bạn bắt đầu mối quan hệ mới với người mà mình yêu thương…
Chúc quý vị thực nghiệm để cùng nhau chánh niệm trong tình yêu!
Nhận xét rằng,
Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu !
Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ?
Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
Thưa Tôi.
Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ.
Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.