Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Tăng Già Họ Thích Nét Đặc Trưng Của Tăng Đòan Phật Giáo Bắc Truyền

13/01/201104:57(Xem: 8086)
Lược Ý Tăng Già Họ Thích Nét Đặc Trưng Của Tăng Đòan Phật Giáo Bắc Truyền


LƯỢC Ý TĂNG GIÀ HỌ THÍCH
NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA TĂNG ĐÒAN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Ýthức về dòng họ là nét văn hóa tiêu biểu của người phương Đông, ở phương Đông khi nhắc đến một nhân vật, một vĩ nhân hay một người bình thường điều đầu tiên mọi người hỏi đến là tên gì họ gì. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy, khi ứng thân trên cuộc đời này ngài cũng là con cháuthuộc dòng họ Thích Ca ở Ấn Độ.

Đức Thích Tôn xuất gia thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề, nơi vườn Nai độ năm anh em Kiều Trần Như, Tăng đoàn Phật Giáo ra đời, dòng dõi nhà Phật đã có người thừa kế, nhưng tất cả đệ tử của Đức Phật không có người nào mang họ Thích.

Lịch đại truyền giáo Tổ sư khi đem Phật Giáo truyền vào Đông Độ tất cả đều không mang họ Thích, vì trong văn hóaPhật Giáo ở Ấn Độ không đặt nặng về vấn đề họ tộc như ở Đông Phương, ngay cả trong sự truyền thừa tông phái Phật Giáo cũng không có hệ thống và rõ ràng như các tông phái Phật Giáo Bắc Truyền.

Trong sách Tây Vực Ký cóđoạn chép: “Dòng Tộc là sự phân biệt các con cháu của tộc họ trãi qua nhiều đời. Họ là sự phân biệt của con cháu của dòng tộc được sinh ra.” Trong sách Thích Ca Thị Yếu Phổchép: “Phàm là dòng họ là bởi muốn chỉ rõ tính chất cho nên mới có vậy. Cho nên tùy theo vật mà đặt họ cho vậy.”

Buổi đầu khi các vị Phạm Tăng đến Trung Quốc truyền giáo, theo tập tục của người Trung Quốc đều phải có họ tên rõ ràng, nên người Trung Quốc thường lấy tên của địa vực hay quê hương của vị Phạm Tăng đặt làm họ. Như hai Ngài dịch kinh “Tứ Thập Nhị Chương”là người Tây Trúc, nên lấy họ là Trúc Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, người dịch “Hành Đạo Bát Nhã Kinh” và “Bát Chu Tam Muội Kinh” là Ngài Trúc Phật Sóc.

Đời Đông Tấn có những vị Tăng đến từ Thiên Trúc tham thiền luận đạo với ngài Đạo An đều có họ Trúc như ngài Trúc Pháp Tề, Trúc Tăng Phụ và Trúc Đạo Hộ..v.v... còn như họ An của ngài An Thế Cao là thái tử của nước An Tức. Cuối đời nhà Hán có ba thầy trò cao Tăng Tây Vực họ Chi rất nổi tiếng đều là người của nước Đại Nguyệt Chi là ngài Chi Sám, Chi Lượng, ngài Chi Khiêm và ngài Chi Mẫn Độ.

Phật Giáo từ khi du nhập vào Đông Phươngcho đến thời Đông Tấn Trung Quốc khoảng trên dưới 200 năm. Trong suốt quá trình truyền giáo cũng như hòa nhập và phát triển, dần đi đến thịnh hành, văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Trung Quốc bắt đầu có sự ảnh hưởng sâu rộng vào Phật Giáo, lúc bấy giờ các vị Phạm Tăng dần dần có ý thức hơn trong vấn đề tên họ của mình.

Phật Pháp Tăng Tam Bảo giáo lý căn bản nhất của Phật Giáo bắt đầu được phổ biến, người dân bản địa tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc hơn về chân lý của Phật Đà, vì vậy lúc bây giờ hiện tượng lấy danh từ, Phật Pháp Tăng trong Tam Bảo làm họ của các vị Phạm Tăng bắt đầu thịnh hành thay vì lấy tên địa vực để làm họ như trước.

Thời Nam Bắc Triều (T.L 420-588) có vị Thiền Sư lấy chử “Phật” để làm họ của mình, như có Ngài nổi tiếng truyềnthọ lối thiền của Thượng Tọa Bộ xưng là Phật Đà Bạc Đà, Ngài phiên dịchbộ Kinh Hoa Nghiêm xưng là Phật Độ Bạc Đà La, Ngài dịch bộ Luật Tứ Phầnxưng là Phật Đà Da Xá, hay còn có Ngài hiện rất nhiều những hiện tượng thần thông quảng đại để hoằng Pháp như Ngài Phật Đồ Trừng. Tất cả những Ngài trên đây đều có họ là từ “Phật”

Pháp tiếng Phạn gọi “Dharma” âm thích là“Đàm ma” hoặc “Đàm vô” các vị Phạm Tăng dùng chử “Pháp” để làm họ của mình rất thịnh hành ở thời kỳ Tam Quốc, như ngài Đàm Ma Lưu Chi đến Lạc Dương Hoằng truyền Luật Tông, Ngài dịch Kinh Tăng Nhất A Hàm và Kinh Trung A Hàm là Ngài Đàm Ma Nan Đề, thời Tấn Vũ Đế có Ngài Đàm Vô Yết đi tây vực cầu Pháp, thời nhà Bắc Lương có Ngài Đàm Vô Sám dịch kinh rất lànổi tiếng, những bộ kinh ngài dịch còn lại như bộ Ưu Bà Tắc Giới Kinh. v.v…tất cả những Ngài trên đây đều lấy từ “Đàm Ma” hoặc “Đàm Vô” (Pháp) làm họ.

Lấy từ “Tăng” làm họ thịnh hành thời NamBắc Triều. Như ngài giới sư Tăng Già Bạc Ma đời Tống thuộc Nam Triều, Ngài Tăng Già Bà La dịch Kinh ở Dương Đô nhà Lương thuộc Nam Triều, NgàiTăng Già Bạc Trừng cùng với Ngài Đạo An dịch bộ A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa luận,thuộc Bắc Triều đời Nhà Tần, ngài Tăng Già Bà Đề dịch bộ A Tỳ Đàm Luận và bộ Kinh A Hàm. Các ngài trên đây đều lấy từ “Tăng” làm họ của mình.

Trong sách “Tỵ Thử Lục Thoại” cóchép: “Phật Pháp từ ngày truyền đến đất Hán, Tăng thường dùng tục Tánh của mình để xưng hô hoặc xưng là Trúc, hoặc đệ tử lấy họ của thầy, ví như Chi Tuần vốn là họ Quan, nhưng theo học ngài Chi Khiêm nên lấy họ Chi …”.

Phật Giáo khi truyền đến Việt Nam, Phạm Tăng cũng như Việt Tăng cũng như vậy, một là lấy họ của mình hai là lấy họ dùng tên chử của địa phương và ba là lấy họ của thầy mà mình theo học. Như họ Khương của ngài Khương Tăng Hội, vì Ngài thuộc người của xứ Khương Cư, như ngài Mâu Bát truyền Đạo Phật ở Việt Nam thì dùng nguyên họ của mình. Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sơ Tổ Thiền Tông Việt Nam, ngài Khuông Việt Thái Sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận Thiền Sư chèo thuyền tiếp Lý Giác.v.v...

Cũng như vậy lấy họ của mình để xưng hô.Điều này một lần nữa cho thấy đến cuối thế kỷ thứ 9 Phật Giáo Việt nam vẫn còn nét nguyên thủy từ ấn độ truyền vào và Phật Giáo Hán hóa vẫn chưa có ảnh hưởng sâu rộng trong Phật Giáo Việt Nam.

Phật Giáo Đông truyền trãi qua hơn 400 năm du nhập và phát triển trong dân gian cũng như triều đình. Đến thời Nam Bắc Triều phía Bắc có ngài Phật Đồ Trừng cực lực hoằng giáo, nên Tăng đoàn Phật Giáo được Trều Đình chính thức công nhận, người bản địa xuất gia làm Tăng ngày một đông, đến đời đệ tử của Ngài Phật Đồ Trừng làNgài Đạo An Đại Sư mới bắt đầu chú ý đến tổ chức lại Tăng Đoàn cũng nhưbắt đầu công cuộc hệ thống điều chỉnh sinh hoạt, lễ nghi, chế độ, luật lệ, phạm bối, nghi thức hành trì trong thường nhật của Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền và đề xướng Tăng đoàn Phật Giáo nên thống nhất.

Ngài Đạo An (312-385)là vị cao Tăng nổi tiếng của thời Đông Tấn, từng đã được ngài Cưu Ma La Thập gọi là “Đông Phương Thánh Nhân” Trong Cao Tăng Truyện quyển 5 chép:“An lấy đức tu làm tông chỉ, học thông Tam Tạng, chế ra Tăng Ni quỹ phạm…Sa Môn đời Ngụy Tấn theo họ của thầy, cho nên mỗi vị họ đều không giống nhau, Ngài Đạo An phát hiện họ của sa môn quá ư hỗn loạn, không thích hợp cho sự thống nhất cũng như phát triễn của Phật Giáo, nên đề xướng Phật là dòng họ Thích, nay đệ tử Phật, nên lấy họ của Phật làm họ của mình”. Từ đó Tăng già Bắc truyền lấy họ Thích làm Họ của Tăng già.

Trong Khai Nguyên Lục chép:“Trước đời Tần, Tấn, người xuất gia lấy họ của thầy làm họ của mình, sau có ngài Di Thiên sa môn Đạo An cho rằng: Phàm là người cắt tóc nhuộmáo, đều là dòng giống của dòng họ Thích Ca, nên không thể có họ khác, cho nên đều phải xưng là họ Thích.”

Ngài Đạo An đề xướng Tăng Già Bắc Truyền nên lấy họ của Phật làm họ của mình, trong ý niệm thống nhất Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền, nhằm tạo một khối tăng đoàn thống nhất nhằm làm động lực phát triển Phật Giáo ở Phương Đông, cho đếnkhi Kinh Tăng Nhất A Hàm được truyền vào Đông Độ thì tính chất dùng họ Thích làm họ cho Tăng Đoàn mới mang đầy đủ ý nghĩa và thuyết phục được Tăng Già Bắc Truyền.

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm phẩm 21 cóchép: “Khi nước của Bốn con sông đổ vào Biển cả đều không có tên riêng được gọi chung là nước biển, đây cũng vậy. Có bốn họ, những gì là bốn? gồm có Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư sĩ.

Tất cả đều được Như Lai thế độ, ba Pháp Y, xuất gia học đạo, không cần phải giữ họ củ của mình nữa, đều gọi là sa môn đệ tử của Thích Ca…Cho nên các Tỳ Kheo, các vị thuộc họ nào trongbốn họ nay đã cắt tóc xuất gia rồi, cho nên gọi là là hành giả kiên cố xuất gia học đạo, cho nên không cần họ cũ nữa, nên tự gọi mình là con cái của dòng họ Thích Ca”.

Sau đó trong Kinh A Hàm cũngthấy có ghi chép về điều này: “Nước của bốn con sông chảy vào biển, không còn lấy tên sông, bốn họ của sa môn đều xưng là Thích tử”.Tăng giàPhật Giáo Bắc Truyền thống nhất dùng họ Thích của Phật làm họ của mình đến đây mới được hoàn toàn thuyết phục.

Trong sách Thích Thị Yếu Lãm chép:“Nay xưng là sa môn họ Thích. Bởi vì bên Thiên trúc người ngoại đạo xuất gia cũng gọi là Sa Môn. Chử Thích làm họ để xưng do đã giản lược…ý là cùng con nhà họ Thích vậy.”

Tăng Già Phật Giáo Bắc Truyền lấy họ Phật để làm họ của mình, nói lên tinh thần “Tùy duyên hóa độ” của Đại Thừa Phật Giáo, đồng thời thể hiện rõ nét chất “Tùy duyên Bất Biến” của Đạo Phật. Văn hóa người Đông Phương mang đậm dấu ấn Nho gia và truyền thống “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên” cây có cội nước có nguồn, cho nên ýthức tộc họ có địa vị rất quan trọng trong dòng chảy văn hóa truyền thống phương Đông.

Đạo Phật đến với phương Đông cũng như nước của bốn sông chảy vào biển cả, không còn dòng nước nào lưu lại tên của một dòng sông, đều chung một tên gọi là nước biển. Cũng như vậy Đạo Phật đến với dân tộc nào, hay đất nước nào, cũng như nước sông đổ vào biển cả, như đem cam lộ tưới mát cho dân tộc đó, như chất đề hồ đượm thắm ngọt ngào vun đắp cho đất nước có hiện hữu bóng hình của từ bi.

Tính chất “Tùy Duyên Bất Biến” của Đạo Phật chẳng khác nào như Kim Cương bất hoại. Nếu Đạo Phật được coi là triết học, thì sự siêu việt của triết lý Phật Đà làm cho nền hiền triết “Bách Gia Chư Tử” phải khâm phục và Quy Y. Nếu Đạo Phật được coi là nền tảng của đạo đức, thì đạo hiếu hay hiếu Kinh của nền đạo đức phương Đôngphải cảm động và sâu lắng về những lời vàng ngọc trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân.

Gương hiếu của “Nhị Thập Tứ Hiếu” chỉ dừng lại ở việc chăm sóc hiếu dưỡng cha mẹ khi còn sanh tiền, thì Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên trong Kinh Vu Lan Bồn còn ý nghĩa hơn cả như vậy.

Đạo Phật tùy duyên làm cho các dân tộc ởphương Đông chấp nhập mình không còn một nghi vấn, Đạo Phật bất biến khi tất cả các dân tộc khác có thể dùng văn hóa truyền thống, hay ý thứchệ của riêng dân tộc mình để giải thích Đạo Phật, và như thế nào đi nữatính chất Phật vẫn tồn tại không không bao giờ mất. Họ Thích của Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền cũng theo tinh thần này, vì “Tùy Duyên” nên theo truyền thống Đông Phương nên cần phải có tộc họ. Lấy họ của Phật Làm họ của mình thể hiện tính “Bất Biến” trong Phật môn.

Tăng Già họ Thích khơi nguồn chotình “Linh Sơn Cốt Nhục”. Tăng Già họ Thích thể hiện tính cốt lõi “Hòa Hợp” của Tăng Đoàn. Tăng Già họ Thích nói lên sự thống nhất của Phật Giáo Bắc Truyền.

Tăng Già họ Thích thể hiện tính cách “Bình Đẳng” không giai cấp trong tâm đại từ bi của Đạo Phật. Tăng Già họ Thích thể hiện chí hướng đạt đáo “Vô Thượng Bồ Đề” thành Phật củatương lai. Tăng Già họ Thích dòng họ “Giải Thoát” của nhân gian cho nênngười xuất gia học Phật vinh dự vì mình mang họ Thích.

(Nguồn: Chùa Minh Thành)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4984)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5216)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 7999)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6139)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5621)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4264)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9163)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5725)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7033)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5741)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]