Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Tăng Già Họ Thích Nét Đặc Trưng Của Tăng Đòan Phật Giáo Bắc Truyền

13/01/201104:57(Xem: 8088)
Lược Ý Tăng Già Họ Thích Nét Đặc Trưng Của Tăng Đòan Phật Giáo Bắc Truyền


LƯỢC Ý TĂNG GIÀ HỌ THÍCH
NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA TĂNG ĐÒAN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Ýthức về dòng họ là nét văn hóa tiêu biểu của người phương Đông, ở phương Đông khi nhắc đến một nhân vật, một vĩ nhân hay một người bình thường điều đầu tiên mọi người hỏi đến là tên gì họ gì. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy, khi ứng thân trên cuộc đời này ngài cũng là con cháuthuộc dòng họ Thích Ca ở Ấn Độ.

Đức Thích Tôn xuất gia thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề, nơi vườn Nai độ năm anh em Kiều Trần Như, Tăng đoàn Phật Giáo ra đời, dòng dõi nhà Phật đã có người thừa kế, nhưng tất cả đệ tử của Đức Phật không có người nào mang họ Thích.

Lịch đại truyền giáo Tổ sư khi đem Phật Giáo truyền vào Đông Độ tất cả đều không mang họ Thích, vì trong văn hóaPhật Giáo ở Ấn Độ không đặt nặng về vấn đề họ tộc như ở Đông Phương, ngay cả trong sự truyền thừa tông phái Phật Giáo cũng không có hệ thống và rõ ràng như các tông phái Phật Giáo Bắc Truyền.

Trong sách Tây Vực Ký cóđoạn chép: “Dòng Tộc là sự phân biệt các con cháu của tộc họ trãi qua nhiều đời. Họ là sự phân biệt của con cháu của dòng tộc được sinh ra.” Trong sách Thích Ca Thị Yếu Phổchép: “Phàm là dòng họ là bởi muốn chỉ rõ tính chất cho nên mới có vậy. Cho nên tùy theo vật mà đặt họ cho vậy.”

Buổi đầu khi các vị Phạm Tăng đến Trung Quốc truyền giáo, theo tập tục của người Trung Quốc đều phải có họ tên rõ ràng, nên người Trung Quốc thường lấy tên của địa vực hay quê hương của vị Phạm Tăng đặt làm họ. Như hai Ngài dịch kinh “Tứ Thập Nhị Chương”là người Tây Trúc, nên lấy họ là Trúc Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, người dịch “Hành Đạo Bát Nhã Kinh” và “Bát Chu Tam Muội Kinh” là Ngài Trúc Phật Sóc.

Đời Đông Tấn có những vị Tăng đến từ Thiên Trúc tham thiền luận đạo với ngài Đạo An đều có họ Trúc như ngài Trúc Pháp Tề, Trúc Tăng Phụ và Trúc Đạo Hộ..v.v... còn như họ An của ngài An Thế Cao là thái tử của nước An Tức. Cuối đời nhà Hán có ba thầy trò cao Tăng Tây Vực họ Chi rất nổi tiếng đều là người của nước Đại Nguyệt Chi là ngài Chi Sám, Chi Lượng, ngài Chi Khiêm và ngài Chi Mẫn Độ.

Phật Giáo từ khi du nhập vào Đông Phươngcho đến thời Đông Tấn Trung Quốc khoảng trên dưới 200 năm. Trong suốt quá trình truyền giáo cũng như hòa nhập và phát triển, dần đi đến thịnh hành, văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Trung Quốc bắt đầu có sự ảnh hưởng sâu rộng vào Phật Giáo, lúc bấy giờ các vị Phạm Tăng dần dần có ý thức hơn trong vấn đề tên họ của mình.

Phật Pháp Tăng Tam Bảo giáo lý căn bản nhất của Phật Giáo bắt đầu được phổ biến, người dân bản địa tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc hơn về chân lý của Phật Đà, vì vậy lúc bây giờ hiện tượng lấy danh từ, Phật Pháp Tăng trong Tam Bảo làm họ của các vị Phạm Tăng bắt đầu thịnh hành thay vì lấy tên địa vực để làm họ như trước.

Thời Nam Bắc Triều (T.L 420-588) có vị Thiền Sư lấy chử “Phật” để làm họ của mình, như có Ngài nổi tiếng truyềnthọ lối thiền của Thượng Tọa Bộ xưng là Phật Đà Bạc Đà, Ngài phiên dịchbộ Kinh Hoa Nghiêm xưng là Phật Độ Bạc Đà La, Ngài dịch bộ Luật Tứ Phầnxưng là Phật Đà Da Xá, hay còn có Ngài hiện rất nhiều những hiện tượng thần thông quảng đại để hoằng Pháp như Ngài Phật Đồ Trừng. Tất cả những Ngài trên đây đều có họ là từ “Phật”

Pháp tiếng Phạn gọi “Dharma” âm thích là“Đàm ma” hoặc “Đàm vô” các vị Phạm Tăng dùng chử “Pháp” để làm họ của mình rất thịnh hành ở thời kỳ Tam Quốc, như ngài Đàm Ma Lưu Chi đến Lạc Dương Hoằng truyền Luật Tông, Ngài dịch Kinh Tăng Nhất A Hàm và Kinh Trung A Hàm là Ngài Đàm Ma Nan Đề, thời Tấn Vũ Đế có Ngài Đàm Vô Yết đi tây vực cầu Pháp, thời nhà Bắc Lương có Ngài Đàm Vô Sám dịch kinh rất lànổi tiếng, những bộ kinh ngài dịch còn lại như bộ Ưu Bà Tắc Giới Kinh. v.v…tất cả những Ngài trên đây đều lấy từ “Đàm Ma” hoặc “Đàm Vô” (Pháp) làm họ.

Lấy từ “Tăng” làm họ thịnh hành thời NamBắc Triều. Như ngài giới sư Tăng Già Bạc Ma đời Tống thuộc Nam Triều, Ngài Tăng Già Bà La dịch Kinh ở Dương Đô nhà Lương thuộc Nam Triều, NgàiTăng Già Bạc Trừng cùng với Ngài Đạo An dịch bộ A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa luận,thuộc Bắc Triều đời Nhà Tần, ngài Tăng Già Bà Đề dịch bộ A Tỳ Đàm Luận và bộ Kinh A Hàm. Các ngài trên đây đều lấy từ “Tăng” làm họ của mình.

Trong sách “Tỵ Thử Lục Thoại” cóchép: “Phật Pháp từ ngày truyền đến đất Hán, Tăng thường dùng tục Tánh của mình để xưng hô hoặc xưng là Trúc, hoặc đệ tử lấy họ của thầy, ví như Chi Tuần vốn là họ Quan, nhưng theo học ngài Chi Khiêm nên lấy họ Chi …”.

Phật Giáo khi truyền đến Việt Nam, Phạm Tăng cũng như Việt Tăng cũng như vậy, một là lấy họ của mình hai là lấy họ dùng tên chử của địa phương và ba là lấy họ của thầy mà mình theo học. Như họ Khương của ngài Khương Tăng Hội, vì Ngài thuộc người của xứ Khương Cư, như ngài Mâu Bát truyền Đạo Phật ở Việt Nam thì dùng nguyên họ của mình. Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sơ Tổ Thiền Tông Việt Nam, ngài Khuông Việt Thái Sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận Thiền Sư chèo thuyền tiếp Lý Giác.v.v...

Cũng như vậy lấy họ của mình để xưng hô.Điều này một lần nữa cho thấy đến cuối thế kỷ thứ 9 Phật Giáo Việt nam vẫn còn nét nguyên thủy từ ấn độ truyền vào và Phật Giáo Hán hóa vẫn chưa có ảnh hưởng sâu rộng trong Phật Giáo Việt Nam.

Phật Giáo Đông truyền trãi qua hơn 400 năm du nhập và phát triển trong dân gian cũng như triều đình. Đến thời Nam Bắc Triều phía Bắc có ngài Phật Đồ Trừng cực lực hoằng giáo, nên Tăng đoàn Phật Giáo được Trều Đình chính thức công nhận, người bản địa xuất gia làm Tăng ngày một đông, đến đời đệ tử của Ngài Phật Đồ Trừng làNgài Đạo An Đại Sư mới bắt đầu chú ý đến tổ chức lại Tăng Đoàn cũng nhưbắt đầu công cuộc hệ thống điều chỉnh sinh hoạt, lễ nghi, chế độ, luật lệ, phạm bối, nghi thức hành trì trong thường nhật của Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền và đề xướng Tăng đoàn Phật Giáo nên thống nhất.

Ngài Đạo An (312-385)là vị cao Tăng nổi tiếng của thời Đông Tấn, từng đã được ngài Cưu Ma La Thập gọi là “Đông Phương Thánh Nhân” Trong Cao Tăng Truyện quyển 5 chép:“An lấy đức tu làm tông chỉ, học thông Tam Tạng, chế ra Tăng Ni quỹ phạm…Sa Môn đời Ngụy Tấn theo họ của thầy, cho nên mỗi vị họ đều không giống nhau, Ngài Đạo An phát hiện họ của sa môn quá ư hỗn loạn, không thích hợp cho sự thống nhất cũng như phát triễn của Phật Giáo, nên đề xướng Phật là dòng họ Thích, nay đệ tử Phật, nên lấy họ của Phật làm họ của mình”. Từ đó Tăng già Bắc truyền lấy họ Thích làm Họ của Tăng già.

Trong Khai Nguyên Lục chép:“Trước đời Tần, Tấn, người xuất gia lấy họ của thầy làm họ của mình, sau có ngài Di Thiên sa môn Đạo An cho rằng: Phàm là người cắt tóc nhuộmáo, đều là dòng giống của dòng họ Thích Ca, nên không thể có họ khác, cho nên đều phải xưng là họ Thích.”

Ngài Đạo An đề xướng Tăng Già Bắc Truyền nên lấy họ của Phật làm họ của mình, trong ý niệm thống nhất Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền, nhằm tạo một khối tăng đoàn thống nhất nhằm làm động lực phát triển Phật Giáo ở Phương Đông, cho đếnkhi Kinh Tăng Nhất A Hàm được truyền vào Đông Độ thì tính chất dùng họ Thích làm họ cho Tăng Đoàn mới mang đầy đủ ý nghĩa và thuyết phục được Tăng Già Bắc Truyền.

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm phẩm 21 cóchép: “Khi nước của Bốn con sông đổ vào Biển cả đều không có tên riêng được gọi chung là nước biển, đây cũng vậy. Có bốn họ, những gì là bốn? gồm có Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư sĩ.

Tất cả đều được Như Lai thế độ, ba Pháp Y, xuất gia học đạo, không cần phải giữ họ củ của mình nữa, đều gọi là sa môn đệ tử của Thích Ca…Cho nên các Tỳ Kheo, các vị thuộc họ nào trongbốn họ nay đã cắt tóc xuất gia rồi, cho nên gọi là là hành giả kiên cố xuất gia học đạo, cho nên không cần họ cũ nữa, nên tự gọi mình là con cái của dòng họ Thích Ca”.

Sau đó trong Kinh A Hàm cũngthấy có ghi chép về điều này: “Nước của bốn con sông chảy vào biển, không còn lấy tên sông, bốn họ của sa môn đều xưng là Thích tử”.Tăng giàPhật Giáo Bắc Truyền thống nhất dùng họ Thích của Phật làm họ của mình đến đây mới được hoàn toàn thuyết phục.

Trong sách Thích Thị Yếu Lãm chép:“Nay xưng là sa môn họ Thích. Bởi vì bên Thiên trúc người ngoại đạo xuất gia cũng gọi là Sa Môn. Chử Thích làm họ để xưng do đã giản lược…ý là cùng con nhà họ Thích vậy.”

Tăng Già Phật Giáo Bắc Truyền lấy họ Phật để làm họ của mình, nói lên tinh thần “Tùy duyên hóa độ” của Đại Thừa Phật Giáo, đồng thời thể hiện rõ nét chất “Tùy duyên Bất Biến” của Đạo Phật. Văn hóa người Đông Phương mang đậm dấu ấn Nho gia và truyền thống “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên” cây có cội nước có nguồn, cho nên ýthức tộc họ có địa vị rất quan trọng trong dòng chảy văn hóa truyền thống phương Đông.

Đạo Phật đến với phương Đông cũng như nước của bốn sông chảy vào biển cả, không còn dòng nước nào lưu lại tên của một dòng sông, đều chung một tên gọi là nước biển. Cũng như vậy Đạo Phật đến với dân tộc nào, hay đất nước nào, cũng như nước sông đổ vào biển cả, như đem cam lộ tưới mát cho dân tộc đó, như chất đề hồ đượm thắm ngọt ngào vun đắp cho đất nước có hiện hữu bóng hình của từ bi.

Tính chất “Tùy Duyên Bất Biến” của Đạo Phật chẳng khác nào như Kim Cương bất hoại. Nếu Đạo Phật được coi là triết học, thì sự siêu việt của triết lý Phật Đà làm cho nền hiền triết “Bách Gia Chư Tử” phải khâm phục và Quy Y. Nếu Đạo Phật được coi là nền tảng của đạo đức, thì đạo hiếu hay hiếu Kinh của nền đạo đức phương Đôngphải cảm động và sâu lắng về những lời vàng ngọc trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân.

Gương hiếu của “Nhị Thập Tứ Hiếu” chỉ dừng lại ở việc chăm sóc hiếu dưỡng cha mẹ khi còn sanh tiền, thì Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên trong Kinh Vu Lan Bồn còn ý nghĩa hơn cả như vậy.

Đạo Phật tùy duyên làm cho các dân tộc ởphương Đông chấp nhập mình không còn một nghi vấn, Đạo Phật bất biến khi tất cả các dân tộc khác có thể dùng văn hóa truyền thống, hay ý thứchệ của riêng dân tộc mình để giải thích Đạo Phật, và như thế nào đi nữatính chất Phật vẫn tồn tại không không bao giờ mất. Họ Thích của Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền cũng theo tinh thần này, vì “Tùy Duyên” nên theo truyền thống Đông Phương nên cần phải có tộc họ. Lấy họ của Phật Làm họ của mình thể hiện tính “Bất Biến” trong Phật môn.

Tăng Già họ Thích khơi nguồn chotình “Linh Sơn Cốt Nhục”. Tăng Già họ Thích thể hiện tính cốt lõi “Hòa Hợp” của Tăng Đoàn. Tăng Già họ Thích nói lên sự thống nhất của Phật Giáo Bắc Truyền.

Tăng Già họ Thích thể hiện tính cách “Bình Đẳng” không giai cấp trong tâm đại từ bi của Đạo Phật. Tăng Già họ Thích thể hiện chí hướng đạt đáo “Vô Thượng Bồ Đề” thành Phật củatương lai. Tăng Già họ Thích dòng họ “Giải Thoát” của nhân gian cho nênngười xuất gia học Phật vinh dự vì mình mang họ Thích.

(Nguồn: Chùa Minh Thành)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/04/2021(Xem: 3998)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
27/04/2021(Xem: 3820)
Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.
27/04/2021(Xem: 5993)
Được sự cho phép của lãnh đạo chính quyền và sự trợ duyên của nam nữ Phật tử, câc nhà hảo tâm khắp nơi, chùa Diên Khánh đã khởi công trùng tu ngôi Tam Bảo vào ngày 12/3 năm Tân Sửu, nhưng kinh phí còn quá khiêm tốn, nên việc tái thiết trùng tu ngôi chánh điện đang dang dở, trì trệ... Nay nhà chùa một lần nữa tha thiết đăng lại bức "Thư Ngỏ", kính gửi lời đến quý đạo hữu, nhà hảo tâm, Phật tử gần xa để công việc trùng tu sớm được hoàn thành.
19/04/2021(Xem: 11211)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
15/04/2021(Xem: 9176)
Bài viết này (phần B) cập nhật và tóm tắt buổi trình bày về bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" tại hội thảo UNC2021_0116 tại Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN (sẽ diễn ra vào ngày 24/4/2021). Các trang bên dưới được trích từ các trang của Power Point Presentation, dựa vào bài viết đã đăng và dán lên đây theo dạng word cho dễ đọc hơn.
15/04/2021(Xem: 6676)
Chúng ta thường biết là Vi Diệu Pháp là Tạng của Nguyên Thủy áp dụng tu học ngày nay rất phổ biến. Tạng này cũng nói về Tâm và nghiên cứu sâu rộng. Riêng Đại Thừa thì có Duy Thức Luận cũng tương tự chỉ khác là có 2 thức Mạc Na Thức số 7 và Tạng Thức số 8. Vi Diệu Pháp là do Xá Lợi Phất giảng còn Duy Thức Luận là do Vô Trước Thế Thân giảng, tất cả đều do Bồ Tát mở rộng ra mà thôi và là Luận tức là luận bàn do qui từ nhiều kinh lại và không do Phật giảng. Xá lợi Phất giảng Vi Diệu Pháp do Phật giảng trên cõi trời cho mẹ của Phật còn Vô Trước Thế Thân giảng là do Phật Di Lạc giảng cũng trên cõi trời. Bài viết nầy chủ yếu đưa ra khái luận về Tâm Thức theo hai phái Nguyên Thủy và Đại Thừa dựa vào Phân Tâm Học ngày nay. Chúng ta nghiên cứu trên căn bản tâm lý học về tạng Vi Diệu Pháp và Duy Thức Luận.
15/04/2021(Xem: 7677)
Chẳng bao lâu sau khi được xác định như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, cậu bé Lhamo Thondup được cha mẹ đưa đến tu viện Kumbum để bắt đầu việc rèn luyện tôn giáo sơ khởi và chờ đợi trong khi những chuẩn bị cho chuyến du hành đến Lhasa được thực hiện. Mười tám tháng sau, việc cung nghinh Đức Đạt Lai Lạt Ma mới đã bắt đầu cho cuộc hành trình ba tháng đến thủ đô của quốc gia. Một khi đến đó, ngài sẽ đăng quang như lãnh tụ tinh thần của dân tộc Tây Tạng, và sau hàng năm rèn luyện lâu hơn, ngài cũng là lãnh tụ chính trị của họ. Đúng với dự đoán của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, Đức Đạt Lai Lạt Ma mới cuối cùng sẽ bị áp lực phải lãnh đạo quốc gia của ngài chống lại những đe dọa ngoại tại.
15/04/2021(Xem: 4980)
Năm nay, nhân dân Vương quốc Phật giáo Campuchia sẽ tổ chức Tết Cổ truyền Chôl Chnăm Thmây từ các ngày 14 đến 16 tháng 4 năm 2021, một trong những lễ hội lớn nhất nước, nhằm ngăn chặn sự lây lan đại dịch Covid-19, với khẩu hiệu “Mừng Năm mới tại tư gia” (New Year at Home). Vào lúc 4 giờ sáng ngày 14 tháng 4, đánh dấu sự kết thúc của năm Phật lịch 2564 và bắt đầu Tân niên Phật lịch 2565, Âm lịch ngày 3 tháng 3 năm Tân Sửu. Thiên thần của Tân niên năm nay là Mondea Devy, con gái thứ tư của Kabel Moha Prum.
15/04/2021(Xem: 5038)
H.T Thích Trí Thủ Như nhiều Phật tử người Miền Trung, người viết cũng rất thích gọi Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ bằng “ Ôn Già Lam”, để phần nào đó cảm nhận được sự Kính trọng và gần gũi, thân thiết bên mình trong cuộc sống tu học. Trong bài viết này xin được dùng hai từ Hòa Thượng ( H.T ). Đối với anh em thanh niên Phật tử chúng tôi ngày trước, mơ ước được gặp và được nghe những vị lãnh đạo Phật giáo nói chuyện là một mơ ước rất lớn, khó có cơ hội trở thành hiện thực. Những khi làm hàng rào danh dự bảo vệ, nhìn được rất gần các vị mỗi khi đi ngang qua đã là một phước báu vô cùng rồi. Nếu muốn được nghe các vị giảng thì mỗi chiều chủ nhật đến giảng đường chùa Ấn Quang để thỏa một phần nào niềm mơ ước ấy. Xem ra ngày trước Phật tử cũng còn có nhiều cơ duyên gặp gỡ các ngài quá!
12/04/2021(Xem: 4320)
Ngài Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Tiến sĩ Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tiến sĩ Azza Karam, Tổng Thư ký tổ chức Các tôn giáo phụng sự hòa bình và tất cả các nhà lãnh đạo kính mến! Chúng tôi rất hanh hạnh được trở thành một phần trong cuộc đối thoại này, giữa các Tôn giáo vì Hòa bình và Tổ chức Y tế Thế giới. Trong một năm qua, chúng tôi ngưỡng mộ vai trò của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đối với vai trò lãnh đạo, mà tổ chức này đã thể hiện trong việc giữ cho các cơ quan Chính phủ cũng như công dân trên thế giới mở rộng các kênh liên lạc. WHO đã chứng minh rằng nó thuộc về toàn bộ thế giới. Có một câu trích dẫn nổi tiếng của Kinh thánh Hindu giáo "Bhagavad Geetha" của Chúa Krishna “Yoga Kshemam Vahamyaham” có nghĩa là “Tôi chăm lo sự thịnh vượng và hạnh phúc của chúng sinh” (I look after prosperity and wellbeing of living beings). Theo quan điểm của tôi, WHO đang nỗ lực hết mình vì cuộc sống hạnh phúc dưới ánh Mặt trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]