Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Tăng Già Họ Thích Nét Đặc Trưng Của Tăng Đòan Phật Giáo Bắc Truyền

13/01/201104:57(Xem: 6122)
Lược Ý Tăng Già Họ Thích Nét Đặc Trưng Của Tăng Đòan Phật Giáo Bắc Truyền


LƯỢC Ý TĂNG GIÀ HỌ THÍCH
NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA TĂNG ĐÒAN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Ýthức về dòng họ là nét văn hóa tiêu biểu của người phương Đông, ở phương Đông khi nhắc đến một nhân vật, một vĩ nhân hay một người bình thường điều đầu tiên mọi người hỏi đến là tên gì họ gì. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy, khi ứng thân trên cuộc đời này ngài cũng là con cháuthuộc dòng họ Thích Ca ở Ấn Độ.

Đức Thích Tôn xuất gia thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề, nơi vườn Nai độ năm anh em Kiều Trần Như, Tăng đoàn Phật Giáo ra đời, dòng dõi nhà Phật đã có người thừa kế, nhưng tất cả đệ tử của Đức Phật không có người nào mang họ Thích.

Lịch đại truyền giáo Tổ sư khi đem Phật Giáo truyền vào Đông Độ tất cả đều không mang họ Thích, vì trong văn hóaPhật Giáo ở Ấn Độ không đặt nặng về vấn đề họ tộc như ở Đông Phương, ngay cả trong sự truyền thừa tông phái Phật Giáo cũng không có hệ thống và rõ ràng như các tông phái Phật Giáo Bắc Truyền.

Trong sách Tây Vực Ký cóđoạn chép: “Dòng Tộc là sự phân biệt các con cháu của tộc họ trãi qua nhiều đời. Họ là sự phân biệt của con cháu của dòng tộc được sinh ra.” Trong sách Thích Ca Thị Yếu Phổchép: “Phàm là dòng họ là bởi muốn chỉ rõ tính chất cho nên mới có vậy. Cho nên tùy theo vật mà đặt họ cho vậy.”

Buổi đầu khi các vị Phạm Tăng đến Trung Quốc truyền giáo, theo tập tục của người Trung Quốc đều phải có họ tên rõ ràng, nên người Trung Quốc thường lấy tên của địa vực hay quê hương của vị Phạm Tăng đặt làm họ. Như hai Ngài dịch kinh “Tứ Thập Nhị Chương”là người Tây Trúc, nên lấy họ là Trúc Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, người dịch “Hành Đạo Bát Nhã Kinh” và “Bát Chu Tam Muội Kinh” là Ngài Trúc Phật Sóc.

Đời Đông Tấn có những vị Tăng đến từ Thiên Trúc tham thiền luận đạo với ngài Đạo An đều có họ Trúc như ngài Trúc Pháp Tề, Trúc Tăng Phụ và Trúc Đạo Hộ..v.v... còn như họ An của ngài An Thế Cao là thái tử của nước An Tức. Cuối đời nhà Hán có ba thầy trò cao Tăng Tây Vực họ Chi rất nổi tiếng đều là người của nước Đại Nguyệt Chi là ngài Chi Sám, Chi Lượng, ngài Chi Khiêm và ngài Chi Mẫn Độ.

Phật Giáo từ khi du nhập vào Đông Phươngcho đến thời Đông Tấn Trung Quốc khoảng trên dưới 200 năm. Trong suốt quá trình truyền giáo cũng như hòa nhập và phát triển, dần đi đến thịnh hành, văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Trung Quốc bắt đầu có sự ảnh hưởng sâu rộng vào Phật Giáo, lúc bấy giờ các vị Phạm Tăng dần dần có ý thức hơn trong vấn đề tên họ của mình.

Phật Pháp Tăng Tam Bảo giáo lý căn bản nhất của Phật Giáo bắt đầu được phổ biến, người dân bản địa tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc hơn về chân lý của Phật Đà, vì vậy lúc bây giờ hiện tượng lấy danh từ, Phật Pháp Tăng trong Tam Bảo làm họ của các vị Phạm Tăng bắt đầu thịnh hành thay vì lấy tên địa vực để làm họ như trước.

Thời Nam Bắc Triều (T.L 420-588) có vị Thiền Sư lấy chử “Phật” để làm họ của mình, như có Ngài nổi tiếng truyềnthọ lối thiền của Thượng Tọa Bộ xưng là Phật Đà Bạc Đà, Ngài phiên dịchbộ Kinh Hoa Nghiêm xưng là Phật Độ Bạc Đà La, Ngài dịch bộ Luật Tứ Phầnxưng là Phật Đà Da Xá, hay còn có Ngài hiện rất nhiều những hiện tượng thần thông quảng đại để hoằng Pháp như Ngài Phật Đồ Trừng. Tất cả những Ngài trên đây đều có họ là từ “Phật”

Pháp tiếng Phạn gọi “Dharma” âm thích là“Đàm ma” hoặc “Đàm vô” các vị Phạm Tăng dùng chử “Pháp” để làm họ của mình rất thịnh hành ở thời kỳ Tam Quốc, như ngài Đàm Ma Lưu Chi đến Lạc Dương Hoằng truyền Luật Tông, Ngài dịch Kinh Tăng Nhất A Hàm và Kinh Trung A Hàm là Ngài Đàm Ma Nan Đề, thời Tấn Vũ Đế có Ngài Đàm Vô Yết đi tây vực cầu Pháp, thời nhà Bắc Lương có Ngài Đàm Vô Sám dịch kinh rất lànổi tiếng, những bộ kinh ngài dịch còn lại như bộ Ưu Bà Tắc Giới Kinh. v.v…tất cả những Ngài trên đây đều lấy từ “Đàm Ma” hoặc “Đàm Vô” (Pháp) làm họ.

Lấy từ “Tăng” làm họ thịnh hành thời NamBắc Triều. Như ngài giới sư Tăng Già Bạc Ma đời Tống thuộc Nam Triều, Ngài Tăng Già Bà La dịch Kinh ở Dương Đô nhà Lương thuộc Nam Triều, NgàiTăng Già Bạc Trừng cùng với Ngài Đạo An dịch bộ A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa luận,thuộc Bắc Triều đời Nhà Tần, ngài Tăng Già Bà Đề dịch bộ A Tỳ Đàm Luận và bộ Kinh A Hàm. Các ngài trên đây đều lấy từ “Tăng” làm họ của mình.

Trong sách “Tỵ Thử Lục Thoại” cóchép: “Phật Pháp từ ngày truyền đến đất Hán, Tăng thường dùng tục Tánh của mình để xưng hô hoặc xưng là Trúc, hoặc đệ tử lấy họ của thầy, ví như Chi Tuần vốn là họ Quan, nhưng theo học ngài Chi Khiêm nên lấy họ Chi …”.

Phật Giáo khi truyền đến Việt Nam, Phạm Tăng cũng như Việt Tăng cũng như vậy, một là lấy họ của mình hai là lấy họ dùng tên chử của địa phương và ba là lấy họ của thầy mà mình theo học. Như họ Khương của ngài Khương Tăng Hội, vì Ngài thuộc người của xứ Khương Cư, như ngài Mâu Bát truyền Đạo Phật ở Việt Nam thì dùng nguyên họ của mình. Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sơ Tổ Thiền Tông Việt Nam, ngài Khuông Việt Thái Sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận Thiền Sư chèo thuyền tiếp Lý Giác.v.v...

Cũng như vậy lấy họ của mình để xưng hô.Điều này một lần nữa cho thấy đến cuối thế kỷ thứ 9 Phật Giáo Việt nam vẫn còn nét nguyên thủy từ ấn độ truyền vào và Phật Giáo Hán hóa vẫn chưa có ảnh hưởng sâu rộng trong Phật Giáo Việt Nam.

Phật Giáo Đông truyền trãi qua hơn 400 năm du nhập và phát triển trong dân gian cũng như triều đình. Đến thời Nam Bắc Triều phía Bắc có ngài Phật Đồ Trừng cực lực hoằng giáo, nên Tăng đoàn Phật Giáo được Trều Đình chính thức công nhận, người bản địa xuất gia làm Tăng ngày một đông, đến đời đệ tử của Ngài Phật Đồ Trừng làNgài Đạo An Đại Sư mới bắt đầu chú ý đến tổ chức lại Tăng Đoàn cũng nhưbắt đầu công cuộc hệ thống điều chỉnh sinh hoạt, lễ nghi, chế độ, luật lệ, phạm bối, nghi thức hành trì trong thường nhật của Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền và đề xướng Tăng đoàn Phật Giáo nên thống nhất.

Ngài Đạo An (312-385)là vị cao Tăng nổi tiếng của thời Đông Tấn, từng đã được ngài Cưu Ma La Thập gọi là “Đông Phương Thánh Nhân” Trong Cao Tăng Truyện quyển 5 chép:“An lấy đức tu làm tông chỉ, học thông Tam Tạng, chế ra Tăng Ni quỹ phạm…Sa Môn đời Ngụy Tấn theo họ của thầy, cho nên mỗi vị họ đều không giống nhau, Ngài Đạo An phát hiện họ của sa môn quá ư hỗn loạn, không thích hợp cho sự thống nhất cũng như phát triễn của Phật Giáo, nên đề xướng Phật là dòng họ Thích, nay đệ tử Phật, nên lấy họ của Phật làm họ của mình”. Từ đó Tăng già Bắc truyền lấy họ Thích làm Họ của Tăng già.

Trong Khai Nguyên Lục chép:“Trước đời Tần, Tấn, người xuất gia lấy họ của thầy làm họ của mình, sau có ngài Di Thiên sa môn Đạo An cho rằng: Phàm là người cắt tóc nhuộmáo, đều là dòng giống của dòng họ Thích Ca, nên không thể có họ khác, cho nên đều phải xưng là họ Thích.”

Ngài Đạo An đề xướng Tăng Già Bắc Truyền nên lấy họ của Phật làm họ của mình, trong ý niệm thống nhất Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền, nhằm tạo một khối tăng đoàn thống nhất nhằm làm động lực phát triển Phật Giáo ở Phương Đông, cho đếnkhi Kinh Tăng Nhất A Hàm được truyền vào Đông Độ thì tính chất dùng họ Thích làm họ cho Tăng Đoàn mới mang đầy đủ ý nghĩa và thuyết phục được Tăng Già Bắc Truyền.

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm phẩm 21 cóchép: “Khi nước của Bốn con sông đổ vào Biển cả đều không có tên riêng được gọi chung là nước biển, đây cũng vậy. Có bốn họ, những gì là bốn? gồm có Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư sĩ.

Tất cả đều được Như Lai thế độ, ba Pháp Y, xuất gia học đạo, không cần phải giữ họ củ của mình nữa, đều gọi là sa môn đệ tử của Thích Ca…Cho nên các Tỳ Kheo, các vị thuộc họ nào trongbốn họ nay đã cắt tóc xuất gia rồi, cho nên gọi là là hành giả kiên cố xuất gia học đạo, cho nên không cần họ cũ nữa, nên tự gọi mình là con cái của dòng họ Thích Ca”.

Sau đó trong Kinh A Hàm cũngthấy có ghi chép về điều này: “Nước của bốn con sông chảy vào biển, không còn lấy tên sông, bốn họ của sa môn đều xưng là Thích tử”.Tăng giàPhật Giáo Bắc Truyền thống nhất dùng họ Thích của Phật làm họ của mình đến đây mới được hoàn toàn thuyết phục.

Trong sách Thích Thị Yếu Lãm chép:“Nay xưng là sa môn họ Thích. Bởi vì bên Thiên trúc người ngoại đạo xuất gia cũng gọi là Sa Môn. Chử Thích làm họ để xưng do đã giản lược…ý là cùng con nhà họ Thích vậy.”

Tăng Già Phật Giáo Bắc Truyền lấy họ Phật để làm họ của mình, nói lên tinh thần “Tùy duyên hóa độ” của Đại Thừa Phật Giáo, đồng thời thể hiện rõ nét chất “Tùy duyên Bất Biến” của Đạo Phật. Văn hóa người Đông Phương mang đậm dấu ấn Nho gia và truyền thống “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên” cây có cội nước có nguồn, cho nên ýthức tộc họ có địa vị rất quan trọng trong dòng chảy văn hóa truyền thống phương Đông.

Đạo Phật đến với phương Đông cũng như nước của bốn sông chảy vào biển cả, không còn dòng nước nào lưu lại tên của một dòng sông, đều chung một tên gọi là nước biển. Cũng như vậy Đạo Phật đến với dân tộc nào, hay đất nước nào, cũng như nước sông đổ vào biển cả, như đem cam lộ tưới mát cho dân tộc đó, như chất đề hồ đượm thắm ngọt ngào vun đắp cho đất nước có hiện hữu bóng hình của từ bi.

Tính chất “Tùy Duyên Bất Biến” của Đạo Phật chẳng khác nào như Kim Cương bất hoại. Nếu Đạo Phật được coi là triết học, thì sự siêu việt của triết lý Phật Đà làm cho nền hiền triết “Bách Gia Chư Tử” phải khâm phục và Quy Y. Nếu Đạo Phật được coi là nền tảng của đạo đức, thì đạo hiếu hay hiếu Kinh của nền đạo đức phương Đôngphải cảm động và sâu lắng về những lời vàng ngọc trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân.

Gương hiếu của “Nhị Thập Tứ Hiếu” chỉ dừng lại ở việc chăm sóc hiếu dưỡng cha mẹ khi còn sanh tiền, thì Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên trong Kinh Vu Lan Bồn còn ý nghĩa hơn cả như vậy.

Đạo Phật tùy duyên làm cho các dân tộc ởphương Đông chấp nhập mình không còn một nghi vấn, Đạo Phật bất biến khi tất cả các dân tộc khác có thể dùng văn hóa truyền thống, hay ý thứchệ của riêng dân tộc mình để giải thích Đạo Phật, và như thế nào đi nữatính chất Phật vẫn tồn tại không không bao giờ mất. Họ Thích của Tăng đoàn Phật Giáo Bắc Truyền cũng theo tinh thần này, vì “Tùy Duyên” nên theo truyền thống Đông Phương nên cần phải có tộc họ. Lấy họ của Phật Làm họ của mình thể hiện tính “Bất Biến” trong Phật môn.

Tăng Già họ Thích khơi nguồn chotình “Linh Sơn Cốt Nhục”. Tăng Già họ Thích thể hiện tính cốt lõi “Hòa Hợp” của Tăng Đoàn. Tăng Già họ Thích nói lên sự thống nhất của Phật Giáo Bắc Truyền.

Tăng Già họ Thích thể hiện tính cách “Bình Đẳng” không giai cấp trong tâm đại từ bi của Đạo Phật. Tăng Già họ Thích thể hiện chí hướng đạt đáo “Vô Thượng Bồ Đề” thành Phật củatương lai. Tăng Già họ Thích dòng họ “Giải Thoát” của nhân gian cho nênngười xuất gia học Phật vinh dự vì mình mang họ Thích.

(Nguồn: Chùa Minh Thành)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2013(Xem: 5486)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
07/02/2013(Xem: 12659)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn Hoằng Pháp HT Thích Như Ðiển tại Âu Châu từ ngày 27-3-2013 đến 21-05-2013
06/02/2013(Xem: 4802)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 7778)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 5693)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 6268)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 9527)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 6488)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 5724)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 6537)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567