Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài Học Thành Đạo - Tâm Minh

04/01/201105:43(Xem: 9646)
Bài Học Thành Đạo - Tâm Minh
ducphatthichca

phatthanhdao-01
BÀI HỌC THÀNH ĐẠO
(Thân kính tặng Anh Chị Em Áo Lam)
Tâm Minh
Có bốn ý nghĩa của thành đạo là: (i) con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo; (ii) bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộ ngay tại đời này; (iii) nội dung của Thành Đạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi tham ái, chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời, và (iv) mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta.
***

Một mùa Thành Đạo nữa lại về. Thành Đạo là tên gọi của sự kiện chứng ngộ Niết-bàn. Một lần nữa, lòng chúng ta lại rộn lên niềm hân hoan chào đón ngày Đức Thế Tôn hoàn thành công phu tu tập của Ngài, công phu chuyển đổi vọng tâm để Niết-bàn hiển lộ. Thời điểm Thành Đạo là lúc sao Mai mới mọc, đêm tối vô minh đã tan và ánh sáng trí tuệ đã đến: ánh sáng giải thoát và giác ngộ. Tất cả những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Ngài từ Đản Sanh, Xuất Gia, cho đến Tu Khổ Hạnh, chiến đãu với Ma Vương rồi Thành Đạo, Nhập Diệt v..v.. Thế Tôn đều để lại cho chúng ta những bài học vô cùng quí giá. Hôm nay mùa Thành Đạo đã về, chúng ta hãy cùng nhau đi vào ý nghĩa Thành Đạo và rút ra những bài học tu tập Đạo giải thoát qua thông điệp Thành Đạo của đức Thế Tôn.

Ý nghĩa thứ nhất của Thành Đạo là: con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo.Sau khi từ bỏ con đường Khổ Hạnh và Thiền Định Ngoại Đạo, đức Thế Tôn nhập định theo hướng mới (thiền định Phật Giáo) và đi đến chứng đắc Đạo Vô Thượng. Áp dụng bài học này vào cuộc sống, người Phật tử chúng ta cũng tránh xa hai thái cực: một bên là quá hăng hái năng nỗ, nhiệt tình, một bên là quá giải đãi, buông lung, phóng dật. Sau mỗi lần tu hoc hay mỗi kỳ Đại Hội, y như rằng chúng ta rất hăm hở về Đơn vị, gia đình riêng... áp dụng, truyền đạt, tích cực đóng góp, xây dựng... nhưng cuối cùng thì thường thường là ngọn lửa nhiệt tình ấy đã bị thả nổi, buông lung, cho qua, rời rạc, và đâu lại vào đó. Chúng ta không có kế hoạch để nuôi dưỡng sự tu tập, vun bồi những chủng tử tốt, loại bỏ những cái xấu v..v.. Chúng ta chưa tự tạo ra thói quen tốt thường soi rọi lại mình và tập cho đàn em chúng ta làm như vậy. Như thói quen ‘Viết Sổ Việc Thiện’ chẳng hạn, đã có từ những ngày xưa (bây giờ là Sổ Hiếu, Sổ Hạnh, Sổ Dũng) không được duy trì và nhắc nhở nên chúng ta không tiến bộ về mặt tu tập. Anh Chị em chúng ta cần lưu tâm về việc này để khỏi mang tiếng người con Phật, người Huynh Trưởng trong Gia Đình Áo Lam mà có khi bị Tam Độc chi phối còn mạnh hơn là một người chỉ mới đến với đạo Phật nữa.

Ý nghĩa thứ hai của Thành Đạo là: bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộ ngay tại đời này. Thật vậy, sinh ra là một con người, sống như một con người, Đức Phật đã thành đạt trạng thái giác ngộ bằng chính sự kiên trì và nỗ lực cá nhân. Ngài không nói rằng chỉ một mình Ngài có thể thành Phật mà ngài dạy rằng: "Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành." Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có thể tu tập để đi đến giác ngộ giải thoát khỏi phiền não khổ đau. Thế Tôn đã mở ra cho chúng ta một niềm tin thoát khổ. Sự kiện Thành Đạo vì vậy, như là một lời thọ ký cho tất cả chúng sanh sẽ thành Phật trong tương lai. Là con của Ngài, hơn nữa là Huynh Trưởng GĐPT, sau lưng còn có đàn em, chúng ta nguyện nỗ lực tinh tấn trong sự tu sửa mình, xứng đáng là con của Như Lai. Như lai có nghĩa là nói gì làm vậy, làm gì nói vậy. Ở đây chúng ta còn học được thêm một bài học sâu sắc về Thân Giáo của người Huynh Trưởng: người Anh, người Chị phải luôn là tấm gương sáng cho đàn em noi theo. Chúng ta không những dạy Phật Pháp cho các em, mà còn phải hành Phật Pháp qua Thân, Miệng, Ý cho các em noi theo; không chỉ ở Chùa, ở Đoàn, trong giờ dạy.. mà cả ở nhà, ở mọi nơi và trong mọi lúc nữa. Nhiều người nghe nói ‘Thành Đạo trong hiện kiếp’ thì liền ‘la’ lên rằng ‘làm sao tu trong 1 kiếp mà thành Phật được?’ Nhưng họ đã quên rằng Thành Phật trong hiện kiếp không có nghĩa là mới tu trong kiếp này mà đã tu trong vô lượng kiếp và kiếp này là kiếp sau cùng, cũng như Thái Tử Tất-đạt-đa vốn là Bồ-tát Hộ Minh từ cung Trời Đâu-suất giáng trần vậy.

Một ý nghĩa nữa của ngày Thành Đạo là: nội dung của Thành Đạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi Tham ái, Chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời. Thật vậy, tự ngã và lòng ham muốn mãnh liệt nơi ta là ngục tù to lớn nhất giam giữ ta trong sinh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau. Trong cuộc sống trước mặt, dù đã có sẵn lý tưởng, phương châm.... đôi khi chúng ta cũng chán nản đến nỗi thốt lên rằng: làm việc GĐPT là vướng vào phiền não, vừa tốn kém năng lượng, thời gian và tiền bạc... Đó là vì chúng ta chưa biết áp dụng bài học này: cái làm cho chúng ta phiền não, tiêu hao năng lượng vô ích không phải là vì sinh hoạt GĐPT mà là vì trong khi sinh hoạt GĐPT, chúng ta còn quá nhiều tham vọng, cố chấp, thị phi...... Nếu chúng ta biết buông bỏ những thứ đó, ‘đặt những gánh nặng đó xuống’ nghĩa là làm việc với tâm vô tư, không thành kiến, không phê phán, không kể công... thì ta sẽ được thanh thản nhẹ nhàng như lời đức Thế Tôn: ‘Khi tâm ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh.’ Cũng thế, với tâm thanh tịnh và an lạc, bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào, thời điểm nào và con người nào, đối với người biết tu tập giải thoát đều thấy đó là môi trường lý tưởng, không cần phải thay đổi hoàn cảnh, cuộc sống...gì cả mà chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ đầy ngã tính đã thành tập khí lâu đời của chúng ta.

Ý nghĩa thứ tư của Thành Đạo là:Mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta. Thật vậy, đức Phật đã chỉ tên rõ ràng 10 đạo binh của ma vương; đó là: ham muốn, nản chí, đói và khát, ái dục, dã dượi, hôn trầm, sợ hãi, hoài nghi, gièm pha & ngoan cố, chiếm đoạt, tự phụ & khinh thường người khác. Chúng ta thấy rõ ràng đây chính là 10 ‘kẻ thù’ có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt, càng ngày càng lún sâu vào mê lầm của ngã chấp. Do vậy, thành công hay thất bại là do ta có thắng lướt được ‘10 tên giặc trong nhà’ này không; chứ không có ai khác quấy phá chúng ta một cách mạnh mẽ và ác liệt hơn 10 tên giặc này. Chúng không những quấy phá bản thân chúng ta mà còn làm ảnh hưởng xấu đến Đoàn thể, tổ chức của chúng ta. Ví dụ như ‘con ma dèm pha & ngoan cố’ làm mất tình đoàn kết thương yêu giữa anh chị em mình; con ma ‘tự phụ & khinh thường người khác’ làm ngã chấp tăng trưởng, xét đoán sai lầm, làm cho ta trở nên dễ ghét & khó thân cận dưới mắt mọi người, bạn bè và anh chị em. Con ma ‘đói khát’ cũng không kém nguy hiểm -đói khát đây không phải là đói cơm khát nước mà là lòng tham không đáy về mọi thứ; đói khát đây sẽ đưa đến chiếm đọat ( = chiếm hữu không chân chánh). Chiếm đoạt đây cũng không phải là trộm cắp tiền bạc của cải mà là chiếm đoạt tiếng tốt danh thơm và công lao hay tiếng vỗ tay của người khác chẳng hạn. ‘Con ma’ này luôn thúc giục ta thấy mình đúng - người sai, mình hay- người dở, mình phải-người trái v..v.. nó lôi kéo chúng ta quay cuồng trong dục vọng đen tối, điên đảo thị phi, làm cho ta mất đi cái tâm trong sáng bất sinh của thuở ban đầu. Quả thật đạo quân Ma vương có khả năng lôi ta xuống vực thẳm của khổ đau phiền não. Nhận diện được chúng, tất nhiên ta có cách đối phó rồi. Vì vậy, tu tập là luôn tỉnh thức để nhận biết khi chúng vừa xuất hiện dưới hình thức một vọng niệm nhỏ, nhú lên trong tâm ta, đừng chạy theo chúng, nhìn thẳng vào chúng và duy trì chánh niệm, để cho chúng tự sinh tự diệt - tự đến tự đi- thì chúng không thể sai sử hay lôi kéo ta được. Đó là lúc chúng ta phải dùng tới sức mạnh của định tâm; nhờ thường xuyên thiền tập, ta có thể quán chiếu tâm mình, nhận diện chân tướng của 10 đạo quân này dưới bất cứ hình tướng nào, nỗ lực tinh tấn loại bỏ chúng, từng tên giặc một, cho đến khi tâm ta đạt được sự an lạc thảnh thơi. Để đối trị và nhiếp phục chúng, ngay trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải chuyên tâm tu tập thực hành hạnh Ít Muốn, Biết Đủ, khiêm tốn, bao dung và luôn tinh cần soi rọi tâm mình, ghi nhớ lời Lục Tổ Huệ Năng: tự thấy lỗi mình, không nhìn lỗi người.

Từ bốn bài học chung của sự kiện Thành Đạo, chúng ta có thể rút ra những bài hoc nhỏ cụ thể riêng cho bản thân mình, tập thể mình, đơn vị mình, gia đình nhỏ của mình v..v.. Thân kính chúc Anh Chị Em một mùa Thành Đạo an lạc, thảnh thơi và giải thoát.

***

Một mùa Thành Đạo nữa lại về. Thành Đạo là tên gọi của sự kiện chứng ngộ Niết-bàn. Một lần nữa, lòng chúng ta lại rộn lên niềm hân hoan chào đón ngày Đức Thế Tôn hoàn thành công phu tu tập của Ngài, công phu chuyển đổi vọng tâm để Niết-bàn hiển lộ. Thời điểm Thành Đạo là lúc sao Mai mới mọc, đêm tối vô minh đã tan và ánh sáng trí tuệ đã đến: ánh sáng giải thoát và giác ngộ. Tất cả những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Ngài từ Đản Sanh, Xuất Gia, cho đến Tu Khổ Hạnh, chiến đãu với Ma Vương rồi Thành Đạo, Nhập Diệt v..v.. Thế Tôn đều để lại cho chúng ta những bài học vô cùng quí giá. Hôm nay mùa Thành Đạo đã về, chúng ta hãy cùng nhau đi vào ý nghĩa Thành Đạo và rút ra những bài học tu tập Đạo giải thoát qua thông điệp Thành Đạo của đức Thế Tôn.

Ý nghĩa thứ nhất của Thành Đạo là: con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo.Sau khi từ bỏ con đường Khổ Hạnh và Thiền Định Ngoại Đạo, đức Thế Tôn nhập định theo hướng mới (thiền định Phật Giáo) và đi đến chứng đắc Đạo Vô Thượng. Áp dụng bài học này vào cuộc sống, người Phật tử chúng ta cũng tránh xa hai thái cực: một bên là quá hăng hái năng nỗ, nhiệt tình, một bên là quá giải đãi, buông lung, phóng dật. Sau mỗi lần tu hoc hay mỗi kỳ Đại Hội, y như rằng chúng ta rất hăm hở về Đơn vị, gia đình riêng... áp dụng, truyền đạt, tích cực đóng góp, xây dựng... nhưng cuối cùng thì thường thường là ngọn lửa nhiệt tình ấy đã bị thả nổi, buông lung, cho qua, rời rạc, và đâu lại vào đó. Chúng ta không có kế hoạch để nuôi dưỡng sự tu tập, vun bồi những chủng tử tốt, loại bỏ những cái xấu v..v.. Chúng ta chưa tự tạo ra thói quen tốt thường soi rọi lại mình và tập cho đàn em chúng ta làm như vậy. Như thói quen ‘Viết Sổ Việc Thiện’ chẳng hạn, đã có từ những ngày xưa (bây giờ là Sổ Hiếu, Sổ Hạnh, Sổ Dũng) không được duy trì và nhắc nhở nên chúng ta không tiến bộ về mặt tu tập. Anh Chị em chúng ta cần lưu tâm về việc này để khỏi mang tiếng người con Phật, người Huynh Trưởng trong Gia Đình Áo Lam mà có khi bị Tam Độc chi phối còn mạnh hơn là một người chỉ mới đến với đạo Phật nữa.

Ý nghĩa thứ hai của Thành Đạo là: bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộ ngay tại đời này. Thật vậy, sinh ra là một con người, sống như một con người, Đức Phật đã thành đạt trạng thái giác ngộ bằng chính sự kiên trì và nỗ lực cá nhân. Ngài không nói rằng chỉ một mình Ngài có thể thành Phật mà ngài dạy rằng: "Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành." Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có thể tu tập để đi đến giác ngộ giải thoát khỏi phiền não khổ đau. Thế Tôn đã mở ra cho chúng ta một niềm tin thoát khổ. Sự kiện Thành Đạo vì vậy, như là một lời thọ ký cho tất cả chúng sanh sẽ thành Phật trong tương lai. Là con của Ngài, hơn nữa là Huynh Trưởng GĐPT, sau lưng còn có đàn em, chúng ta nguyện nỗ lực tinh tấn trong sự tu sửa mình, xứng đáng là con của Như Lai. Như lai có nghĩa là nói gì làm vậy, làm gì nói vậy. Ở đây chúng ta còn học được thêm một bài học sâu sắc về Thân Giáo của người Huynh Trưởng: người Anh, người Chị phải luôn là tấm gương sáng cho đàn em noi theo. Chúng ta không những dạy Phật Pháp cho các em, mà còn phải hành Phật Pháp qua Thân, Miệng, Ý cho các em noi theo; không chỉ ở Chùa, ở Đoàn, trong giờ dạy.. mà cả ở nhà, ở mọi nơi và trong mọi lúc nữa. Nhiều người nghe nói ‘Thành Đạo trong hiện kiếp’ thì liền ‘la’ lên rằng ‘làm sao tu trong 1 kiếp mà thành Phật được?’ Nhưng họ đã quên rằng Thành Phật trong hiện kiếp không có nghĩa là mới tu trong kiếp này mà đã tu trong vô lượng kiếp và kiếp này là kiếp sau cùng, cũng như Thái Tử Tất-đạt-đa vốn là Bồ-tát Hộ Minh từ cung Trời Đâu-suất giáng trần vậy.

Một ý nghĩa nữa của ngày Thành Đạo là: nội dung của Thành Đạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi Tham ái, Chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời. Thật vậy, tự ngã và lòng ham muốn mãnh liệt nơi ta là ngục tù to lớn nhất giam giữ ta trong sinh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau. Trong cuộc sống trước mặt, dù đã có sẵn lý tưởng, phương châm.... đôi khi chúng ta cũng chán nản đến nỗi thốt lên rằng: làm việc GĐPT là vướng vào phiền não, vừa tốn kém năng lượng, thời gian và tiền bạc... Đó là vì chúng ta chưa biết áp dụng bài học này: cái làm cho chúng ta phiền não, tiêu hao năng lượng vô ích không phải là vì sinh hoạt GĐPT mà là vì trong khi sinh hoạt GĐPT, chúng ta còn quá nhiều tham vọng, cố chấp, thị phi...... Nếu chúng ta biết buông bỏ những thứ đó, ‘đặt những gánh nặng đó xuống’ nghĩa là làm việc với tâm vô tư, không thành kiến, không phê phán, không kể công... thì ta sẽ được thanh thản nhẹ nhàng như lời đức Thế Tôn: ‘Khi tâm ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh.’ Cũng thế, với tâm thanh tịnh và an lạc, bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào, thời điểm nào và con người nào, đối với người biết tu tập giải thoát đều thấy đó là môi trường lý tưởng, không cần phải thay đổi hoàn cảnh, cuộc sống...gì cả mà chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ đầy ngã tính đã thành tập khí lâu đời của chúng ta.

Ý nghĩa thứ tư của Thành Đạo là:Mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta. Thật vậy, đức Phật đã chỉ tên rõ ràng 10 đạo binh của ma vương; đó là: ham muốn, nản chí, đói và khát, ái dục, dã dượi, hôn trầm, sợ hãi, hoài nghi, gièm pha & ngoan cố, chiếm đoạt, tự phụ & khinh thường người khác. Chúng ta thấy rõ ràng đây chính là 10 ‘kẻ thù’ có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt, càng ngày càng lún sâu vào mê lầm của ngã chấp. Do vậy, thành công hay thất bại là do ta có thắng lướt được ‘10 tên giặc trong nhà’ này không; chứ không có ai khác quấy phá chúng ta một cách mạnh mẽ và ác liệt hơn 10 tên giặc này. Chúng không những quấy phá bản thân chúng ta mà còn làm ảnh hưởng xấu đến Đoàn thể, tổ chức của chúng ta. Ví dụ như ‘con ma dèm pha & ngoan cố’ làm mất tình đoàn kết thương yêu giữa anh chị em mình; con ma ‘tự phụ & khinh thường người khác’ làm ngã chấp tăng trưởng, xét đoán sai lầm, làm cho ta trở nên dễ ghét & khó thân cận dưới mắt mọi người, bạn bè và anh chị em. Con ma ‘đói khát’ cũng không kém nguy hiểm -đói khát đây không phải là đói cơm khát nước mà là lòng tham không đáy về mọi thứ; đói khát đây sẽ đưa đến chiếm đọat ( = chiếm hữu không chân chánh). Chiếm đoạt đây cũng không phải là trộm cắp tiền bạc của cải mà là chiếm đoạt tiếng tốt danh thơm và công lao hay tiếng vỗ tay của người khác chẳng hạn. ‘Con ma’ này luôn thúc giục ta thấy mình đúng - người sai, mình hay- người dở, mình phải-người trái v..v.. nó lôi kéo chúng ta quay cuồng trong dục vọng đen tối, điên đảo thị phi, làm cho ta mất đi cái tâm trong sáng bất sinh của thuở ban đầu. Quả thật đạo quân Ma vương có khả năng lôi ta xuống vực thẳm của khổ đau phiền não. Nhận diện được chúng, tất nhiên ta có cách đối phó rồi. Vì vậy, tu tập là luôn tỉnh thức để nhận biết khi chúng vừa xuất hiện dưới hình thức một vọng niệm nhỏ, nhú lên trong tâm ta, đừng chạy theo chúng, nhìn thẳng vào chúng và duy trì chánh niệm, để cho chúng tự sinh tự diệt - tự đến tự đi- thì chúng không thể sai sử hay lôi kéo ta được. Đó là lúc chúng ta phải dùng tới sức mạnh của định tâm; nhờ thường xuyên thiền tập, ta có thể quán chiếu tâm mình, nhận diện chân tướng của 10 đạo quân này dưới bất cứ hình tướng nào, nỗ lực tinh tấn loại bỏ chúng, từng tên giặc một, cho đến khi tâm ta đạt được sự an lạc thảnh thơi. Để đối trị và nhiếp phục chúng, ngay trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải chuyên tâm tu tập thực hành hạnh Ít Muốn, Biết Đủ, khiêm tốn, bao dung và luôn tinh cần soi rọi tâm mình, ghi nhớ lời Lục Tổ Huệ Năng: tự thấy lỗi mình, không nhìn lỗi người.

Từ bốn bài học chung của sự kiện Thành Đạo, chúng ta có thể rút ra những bài hoc nhỏ cụ thể riêng cho bản thân mình, tập thể mình, đơn vị mình, gia đình nhỏ của mình v..v.. Thân kính chúc Anh Chị Em một mùa Thành Đạo an lạc, thảnh thơi và giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12811)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5630)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5134)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5339)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4697)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4379)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4936)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4421)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3845)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7096)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]