Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh Đuốc Quảng Đức

06/11/201020:54(Xem: 12808)
Ánh Đuốc Quảng Đức

CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO
BỒ-TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨCVỊ PHÁP THIÊU THÂN
Viện Nghiên Cứu PhậtHọc Việt Nam, ngày 29-5-05

ÁNH ĐUỐCQUẢNG ĐỨC
HoàThượng Thích Đức Nhuận

Ngày20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễnhành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni đểtranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốctế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng QuảngÐức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dướiđây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lạicho đời.

“Tôi pháp danh Thích Quảng Ðức, Hòa Thượng Trụ Trì chùaQuán Âm, Phú Nhuận (Gia Ðịnh).” Nhận thấy Phật giáo nướcnhà đương lúc ngữa nghiêng, tôi là một tu sĩ, mệnh danhlà trưởng tử của Như Lai, không lẽ cứ ngồi điểm nhiêntọa thị để cho Phậf pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phátnguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phậtđể hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mườiphương chư Phật chư Ðại đức Tăng, Ni chứng minh cho tôiđạt thành chí nguyện như sau:

1.Mong ơn Phật tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm sángsuốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáoViệt Nam ghi trong bản tuyên ngôn.

2.Nhờ ơn Phật tổ gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trườngtồn bất diệt.

3.Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Ðại đức Tăng,Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố bắtbớ giam cầm của kẻ gian ác.

4.Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.

5.Trước khi nhắm mắt về cõi Phật, tôi trân trọng kính gửilời cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nên lấy lòng từ bi đốivới quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo đểgiữ vững nước nhà muôn thuở”.
“Tôi thiết tha kêu gọi chư Ðại đức Tăng, Ni, Phật tử nênđoàn kết nhất trí hy sinh đễ bảo tồn Phật giáo.”

NamMô Ðấu Chiến Thắng Phật.
Làmtại chùa Ấn Quang, ngày mồng 8 tháng 4 nhuận năm Quí Mão.
Tỳkhưu Thích Quảng Ðức kính bạch.

HòaThượng Quảng Ðức, pháp danh Thị Thủy, thế danh Lâm VănTức, sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnhKhánh Hòa (Nha Trang) Trung Việt, xuấ gia lúc lên 7 tuổi, đượcnhị vị thân sinh chấp thuận cho đi theo hầu ngườicậu ruột là Hòa Thượng Thích Hoàng Thâm đem về chùa nuôinấng dạy dỗ, và đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 15 tuổi,ngài được nghiệp sư ( Hòa thượng Hoàng Thâm) cho thụ Sadi và năm 20 tuổi thụ Tỳ khưu. Sau khi thụ đại giới, Ngàiphát nguyện lên núi tĩnh tu 3 năm. Nổi tiếng là người gìngiữ giới luật nghiêm minh. Ngài đã từng giữ các chức vụ:

- Chứng minh đạo sư hội Phật giáo Ninh Hòa.
- Phó trị sự và trưởng ban nghi lễ giáo hội Tăng già NamViệt.

Năm1943, Ngài rời Khánh Hòa vào Nam, ròng rã 20 năm, đi khắp cácvùng: Sài Gòn, Gia Ðịnh, Hà Tiên, Ðịnh Tường, Cao Miên....hoằng truyền chánh pháp. Ngài đã xây cất và trùng tu tấtcả 14 ngôi chùa. Gặp lúc Phật giáo nước nhà bị chế độtàn bạo, phi nhân nhà Ngô có dụng ý phá hủy nền đạo lýtruyền thống của dân tộc, ngày 27/5/1963, Ngài viết thư thỉnhcầu Tổng Trị Sự Giáo hội Tăng Già Việt Nam xin tự đốtmình để bảo vệ đạo pháp. Mặc dầu không được giáohội chấp thuận, nhưng ý nguyện quyết tâm thực hiện sựtự thiêu, nên khoảng đầu giờ ngọ sáng ngày 20 tháng 4 nhuậnnăm Quý Mão (11/6/1963) nhân cuộc diễn hành của gầnmột ngàn Tăng, Ni qua các ngã đường Phan Ðình Phùng- Lê VănDuyệt, Ngài xuống xe, tự tẫm dầu ướt đẫm ba tấm càsa và ngồi kiết già giữa ngã tư đường, một tay kềt ấncam lộ, tay kia tự châm lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín châuthân. Mười lăm phút sau, nhục thể Ngài ngã lăn ra. Mọi ngườiquỳ xuống. Cả hiện trường lúc ấy những tiếng khóc nứcnở xen lẫn tiếng niệm Phật, tụng kinh. Bầu trời Sài Gònđang nhộn nhịp.... bỗng nhiên mang bộ mặt thê lương ảmđạm, như báo trước một sự”bất thường” sẽ đếnvới nhà Ngô trong một tương lai không xa.

Vàtiếng nói cuối cùng của Ngài nhắn với Tổng Thống Ngòình Diệm:

Trướckhi nhắm mắt về cõi Phật, tôi trân trọng kính gửi lờicho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nên lấy lòng từ bi đối vớiquốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữvững nước nhà muôn thuở”.
“Tôi thiết tha kêu gọi chư Ðại đức Tăng, Ni, Phật tử nênđoàn kết nhất trí hy sinh đễ bảo tồn Phật giáo.”

Ngọnlửa Quảng Ðức đã thắp sáng thời đại chúng ta, một thờiđại chiến tranh, hận thù đang bao trùm lên thân phận conngười (mà) tâm tư thì chứa những âu lo, buồn chán, nghikỵ, sợ sệt và mất niềm tin!

Cách9 ngày sau ngày tự thiêu, 20/6/1963 nhục thể Hòa thượngQuảng Ðức được rước từ chùa Xá Lợi đi theo đườngTrần Quốc Toản về An Dưỡng Ðịa ở Phú Lâm để làm lễhỏa thiêu. Chính quyền nhà Ngô sợ làn sóng người đưa tangnên đã hạn chế chỉ cho phép 200 Tăng, Ni tham dự và buộcphải đi bằng xe hơi. Suốt dọc hai bên lề đường dài hàngcây số, các Phật tử đứng đông nghẹt để chờ chiêm báikim quan một vị cao Tăng đã tự thiêu thân thể để bảovệ chánh pháp.

Ngọnlửa “thiêu” với sức nóng hàng ngàn độ đã không đốtcháy được trái tim kim cương bất hoại của vị Bồ tát“ vị pháp thiêu thân”. Ngọn lửa Quảng Ðức không chỉlàm chấn động lương tâm nhân loại trên khắp thế giớimà còn đốt luôn một chế độ hà chính bất công, thốinát, sau 9 năm cai trị miền nam khiến người dân phải sốngcuộc sống trong quằn quại đau thương, tủi nhục....
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 7381)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8435)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8307)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7714)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8039)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9489)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15092)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8661)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13451)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8962)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]