Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mầu sắc Pháp Phục

19/10/201002:05(Xem: 9570)
Mầu sắc Pháp Phục

ChuTonDuc (00)
MẤU SẮC PHÁP PHỤC
Thích Nguyên Hiệp

Y phục được xem là một trong bốn vật dụng thiết yếu đối với tu sĩ Phật giáo. Là vật dụng thiết yếu vì y phục giúp che kín thân thể, giúp cơ thể tránh khỏi sự xâm hại của "nóng, lạnh và ruồi muỗi," chứ không phải vì một mục đích nào khác. Nói cách khác, người xuất gia (cũng như mọi người) không thể không dùng đến y áo, chứ không dùng y áo làm thước đo cho một giá trị nào đó. Điều này hẳn nhiên không hoàn toàn đúng về sau, nhưng ít nhất nó được phản ánh trong giai đoạn đầu tiên.

Tuy nhiên, vì y áo được xem là một trong bốn vật dụng thiết yếu nên việc hình thành những giới luật liên quan là điều hẳn nhiên. Nhưng dù Luật tạng có những quy định về việc khâu, nhuộm và sử dụng y phục thì màu sắc cụ thể của y như thế nào lại không được nhắc đến.

Chúng ta không rõ vào thời ấy Đức Phật đắp y màu gì. Kinh luật không đề cập đến màu y cụ thể của Đức Phật cũng như của Tăng chúng. Tuy nhiên, trong kinh Đại Bát Niết Bàn,chúng ta gặp một đoạn nói về việc cư sĩ Pukkusa, dòng tộc Mallā, đã cúng dường Đức Phật và Tôn giả Ananda hai chiếc y màu "kim sắc, vàng chói". Điều này dường như rằng y phục của Đức Phật thường có màu vàng, hay một màu tương tự như vậy, mà nó được xem là tương ứng với sắc da của Ngài (?).

Có quan điểm cho rằng, y phục của Tăng sĩ thời ấy có màu vàng nghệ, hoặc màu nâu vàng (hay vàng cam), là những màu sắc y áo mà du tăng của các giáo phái khác thường sử dụng, bởi vì những sắc màu này phù hợp với các du sĩ rày đây mai đó, đầu đội trời chân đạp đất và đẫm mình với gió bụi. Và thêm một lý do nữa khiến người ta suy luận như vậy là do sự phổ biến của truyền thống dùng cây mít làm thuốc nhuộm, mà y áo được nhuộm bằng chất liệu này thường cho ra màu vàng. Truyền thống nhuộm y theo cách này hiện vẫn được một số Tăng sĩ theo truyền thống Theravada duy trì. Bên cạnh đó, giả thiết y có màu vàng còn đến từ truyền thống nhuộm y bằng các loại rễ, lá hay vỏ cây, nhưng có bổ sung thêm củ nghệ. Tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy bằng chứng cho những điều này trong các kinh luật.

Trong Samantapasadika, một luận giải về Luật tạng do Phật Âm (Buddhagosha) sưu tập và dịch từ tiếng Sinhala sang Pali vào thế kỷ thứ V, chúng ta bắt gặp một đoạn thế này: "Đức Phật đưa cánh tay phải ra khỏi chiếc y màu đỏ, nói với những người muốn xuất gia với Phạm âm, ‘hãy đến đây, ông sẽ sống đời xuất gia để chấm dứt khổ đau’. Vừa sau khi kết thúc những lời này, thân tướng cư sĩ biến mất, thân tướng Tăng sĩ xuất hiện. Một lễ thọ giới hoàn tất. Những người này đầu sạch tóc, khoác cà-sa (kasava), mặc một y, khoác một y (bên ngoài) và đắp một y trên vai". Đó là một đoạn chúng ta thấy có nhắc đến màu y của Đức Phật: màu đỏ.

Tuy nhiên, căn cứ vào những trình bày trong Luật tạng liên quan đến y phục của Tăng, chúng ta thấy rằng người xuất gia thời ấy không sử dụng thuần nhất một màu sắc, bởi vì y áo tùy thuộc vào loại cây làm thuốc nhuộm mà mỗi vị Tăng sử dụng. Nhưng có một điều chúng ta có thể biết là màu sắc y áo của Tăng sĩ thời ấy thường có màu tối, sẫm, và là một sắc màu không đẹp. Điều này có thể biết được qua những quy định về các loại thuốc nhuộm mà Đức Phật cho phép sử dụng. Và nó cũng được thể hiện ngay nơi việc dùng chữ kasava (S. kasaya) để chỉ cho y áo; kasava có nghĩa là sự úa màu, bạc màu, hay như thường được gọi là "hoại sắc".

Tứ Phần Luật (Tập 5) có nêu ra một vài cách thức nhuộm y, mà nếu nhuộm theo cách thức này thì y hẳn phải có màu sẫm và xấu, "Nếu y bị bay màu thì nên nhuộm lại, hoặc nhúng bùn, hay dùng vỏ cây đà-bà, vỏ cây bà-trà, kiền-đà-la, tất bát, a-ma-lặc, hoặc dùng gốc cây, hay cỏ thiến để nhuộm".(HT. Đổng Minh dịch). Trong Đại Phẩm (Nam truyền), chúng ta thấy có sáu loại thuốc nhuộm được Đức Phật cho phép sử dụng nhuộm y, "Này các Tỳ kheo, ta cho phép được sử dụng sáu loại thuốc nhuộm. Đó là thuốc nhuộm làm từ rễ cây, thuốc nhuộm làm từ thân cây, thuốc nhuộm làm từ vỏ cây, thuốc nhuộm làm từ lá cây, thuốc nhuộm làm từ bông hoa, thuốc nhuộm làm từ trái cây".Nhìn chung, dù y được nhuộm bằng loại thuốc nhuộm làm từ chất liệu gì trong sáu loại này thì màu sắc của y thường không phải màu sáng.

Y cần phải nhuộm cho sẫm màu trước hết để phân biệt với y áo mà người tại gia thuở ấy thường mặc là màu trắng, và thứ nữa nó cần phải làm cho "hoại sắc" để không gây nên sự yêu thích nơi người mặc và người nhìn, tránh sự tham chấp có thể xảy ra! Và việc Tăng sĩ mặc y sáng màu cũng là điều bị xã hội thời ấy phê phán. Trong Đại Phẩmcó nhắc đến trường hợp các Tỳ kheo mặc y "màu ngà voi" và bị dân chúng phê bình.

Đó là những thông tin về màu sắc của y mà ta tạm có. Còn về kiểu thức của y, dựa vào những trình bày trong Luật tạng, chúng ta thấy rằng, y của người xuất gia thời ấy thường là một miếng vải hình chữ nhật (hoặc gần như vậy), và không được để nguyên mà phải được ghép thành từ nhiều mảnh rời. Mặc y để nguyên miếng là điều không phù hợp với các Tăng sĩ của nhiều giáo phái chứ không riêng gì Tăng sĩ Phật giáo.

Trong giai đoạn đầu, việc sử dụng y được khâu ghép lại từ nhiều mẩu vải chưa được Đức Phật quy định; Tăng chúng mặc bất cứ loại y áo nào mà họ kiếm được, hoặc nguyên tấm, hoặc do nhiều mảnh ghép thành. Nhưng về sau, khi dân chúng phê bình việc các Tỳ kheo mặc y nguyên tấm, Đức Phật nhân đó mới dạy rằng nên mặc y cắt, tức y do nhiều mảnh vải ghép thành. Và ý tưởng may y từ những mảnh vải vuông cân đối đã xảy ra sau đó, khi Đức Phật cùng với Tôn giả Ananda từ Dakkhināgiri quay trở lại Rājagaha và nhìn thấy những ô ruộng vuông vức bên đường (xem thêm Đại Phẩm,hoặcTứ Phần Luậtquyển V). Điều mà về sau hình thành một tên gọi khác cho y là "phước điền y". Và với tên gọi này, y phục của người xuất gia đã có thêm "giá trị" mới: nơi người cư sĩ có thể gieo trồng những hạt giống phước!

Như vậy, y của các Tỳ kheo thường có hình chữ nhật với những mảnh vải ghép lại. Việc mặc y do nhiều mảnh vải ghép lại như vậy, một mặt do vì các vị du sĩ thời ấy thường nhặt những mảnh vải ở các nghĩa địa và đống rác rồi khâu kết thành (để rồi nó trở thành một quy ước), và mặt khác để nó "phù hợp với sa môn, và để những kẻ đối nghịch nhìn thấy không khởi tâm mong muốn" (Đại Phẩm).

Theo truyền thống, một vị Tăng khi khoác y thường để trần một vai, cách thức biểu lộ lòng tôn kính, đặc biệt khi thưa chuyện hay học hỏi với một vị trưởng lão. Điều này cũng là một quy ước của xã hội thời ấy. Việc mặc y để trần vai phải, thực ra, không phải là truyền thống riêng của Phật giáo, bởi vì khi Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) đến gặp Đức Phật để xin gia nhập Tăng đoàn, ông cũng đắp y để trần vai phải. Người Ấn Độ cổ đại có truyền thống mặc áo để trần vai phải khi gặp những bậc trưởng lão, những đạo sư hay đến các thánh địa.

Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, dưới sự tác động của một nền văn hóa đặc thù ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Khổng giáo, hình thức đắp y để trần một vai đã không còn phù hợp đối với các Tăng sĩ khi xuất hiện ở quốc gia này. Ngược lại với văn hóa Ấn, người đắp y để trần vai không được xem biểu lộ sự lịch thiệp ở Trung Quốc. Người Trung Quốc xem một người ăn bận kín thân là biểu hiện của sự tôn trọng. Và do đó y phục của Tăng đã có sự thay đổi. Bên cạnh đó, việc thay đổi kiểu thức y phục còn chịu sự ảnh hưởng cách ăn mặc của các tu sĩ Lão giáo, và cả điều kiện khí hậu. Việc sử dụng áo hậu dài có tay rộng là do ảnh hưởng kiểu áo của tu sĩ Lão giáo. Hẳn nhiên các tu sĩ Phật giáo đã có sửa đổi, khi khoác thêm bên ngoài chiếc y có những ô (điều), một cách vừa sáng tạo để phù hợp với bối cảnh văn hóa mới, nhưng cũng giữ lại nét truyền thống riêng của mình.

Nhưng khi y áo có sự thay đổi để phù hợp với bối cảnh văn hóa mới, thì cách sử dụng ba y của Tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa đã không còn giống với truyền thống ban đầu; và những nghi thức liên quan đến y cũng đã được quy định lại: ba y được sử dụng cho những trường hợp cụ thể, và chúng còn liên quan đến vấn đề hạ lạp và vị trí của người sử dụng.

Khi đã trở thành một vật không chỉ dùng "che chở nóng lạnh" như thời kỳ đầu, y ít nhiều trở thành vật mang tính biểu tượng và được gắn thêm những giá trị khác. Và khi y đã có những liên hệ với lễ nghi, được quy định mặc trong những trường hợp nào thì việc hình thành nên các loại áo nhật bình là điều tất yếu phải có. Nhưng việc sáng tạo thêm những loại áo nhật bình khác không chỉ vì "tam y" đã ít nhiều gắn liền với lễ nghi, còn vì các Tăng sĩ không còn thực hành truyền thống khất thực như ở Ấn Độ mà phải lao động độ nhật. Việc khoác y để lao động chân tay là điều không mấy phù hợp. Và ở đây màu sắc của từng loại y áo lại có sự khác nhau, để cho nó tương hợp với từng hoàn cảnh.

Các nước theo Phật giáo Đại thừa phần lớn tiếp nhận Phật giáo qua cửa ngõ Trung Quốc, và rồi chừng mực nào đó đã chịu ảnh hưởng một vài nét đặc trưng của Phật giáo nước này. Khi một vị Tăng Trung Hoa đến một nước khác truyền đạo, người đệ tử xuất gia của vị này không thể không dùng kiểu pháp phục của thầy mình (ít nhất là vào lúc đầu). Chính lý do này mà Tăng sĩ các nước theo Phật giáo Đại thừa có pháp phục phần nào giống với pháp phục Tăng sĩ Trung Quốc, dễ thấy nhất là cách choàng y ra ngoài áo hậu. Nếu nhìn pháp phục của Tăng sĩ Hàn Quốc, chúng ta thấy nó không khác mấy pháp phục của Tăng sĩ Trung Quốc. Dù về sau người Hàn đã có sự thay đổi, chẳng hạn như họ không giữ nguyên kiểu hậu dài của Tăng sĩ Trung Quốc, và y cũng có một vài "điều chỉnh", nhưng trên căn bản là thừa kế truyền thống pháp phục Trung Quốc.

Nhật Bản đầu tiên tiếp nhận Phật giáo từ Hàn Quốc, và sau đó từ Trung Quốc, pháp phục do đó ít nhiều chịu ảnh hưởng pháp phục Tăng sĩ Trung Quốc. Tuy nhiên, Tăng sĩ Nhật thường rất có tính sáng tạo nên không dễ tiếp nhận nguyên vẹn kiểu pháp phục đó. Họ tạo ra nhiều loại y áo khác nhau, cả y áo dùng trong nghi lễ và cả y phục thường nhật, số tên gọi vượt lên con số chục.

Về màu sắc, y áo của Tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa không có sự đồng nhất. Ngay ở Trung Quốc, không phải tất cả Tăng sĩ đều có chung màu sắc y phục: các loại màu thường được sử dụng là vàng, nâu vàng, nâu, xám, xanh, đen và xám đen. Vào đời nhà Đường, còn xuất hiện thêm một loại y tía, là y nhà vua ban cho những vị cao Tăng.

Y áo Tăng sĩ Hàn Quốc thường có các màu: xám, nâu vàng, hoặc xanh (Tăng sĩ Hàn Quốc thường khoác y màu nâu vàng, hậu và y phục thường nhật có màu xám hoặc lam). Tăng sĩ Nhật thì thường có y màu vàng, xám hoặc đen, và cũng có thêm y tía, một loại y có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nhưng ở Nhật màu sắc y phục còn liên quan đến vị trí và cấp bậc của người mang nó. Ví dụ những người tập sự (như các chú tiểu ở Việt Nam) thường chỉ mặc y phục màu đen, và họ chỉ được mang y vàng sau khi đã thọ giới. Ở Nhật, màu sắc pháp phục còn tùy thuộc vào vị trí của từng ngôi chùa. Ví dụ như chỉ những chức sắc tại các ngôi chùa lớn mới được khoác y màu tía. Màu sắc pháp phục ở Nhật cũng liên quan đến vấn đề bộ phái; và những tranh luận về màu sắc pháp phục đã từng xảy ra. Vào thế kỷ XIII, người sáng lập Thiền phái Tào Động, Đạo Nguyên (1200-1253), cho rằng màu hoàng thổ là màu phù hợp nhất đối với y áo, tuy nhiên các màu khác như xanh, vàng, đỏ, đen, tía và màu kết hợp tất cả những màu này, cũng được phép sử dụng.

Chúng ta thường nghe nói chư Tăng Nam tông khoác y theo truyền thống thời Đức Phật. Có thể điều đó đúng qua kiểu đắp y để trần một vai, nhưng vì màu sắc do không có sự đồng nhất ngay từ buổi đầu nên y phục Tăng sĩ ở các nước Phật giáo Theravada không hoàn toàn có màu giống nhau. Ở Srilanka, màu y phổ biến nhất là nâu vàng (hoặc màu hạt dẻ). Điều này có thể vì ở Srilanka trong quá khứ có nhiều loại cây cho màu sắc này; và màu này vẫn còn thịnh hành cho đến ngày hôm nay. Trong khi đó màu y của các sư Miến Điện thường có màu nâu đỏ; khác với với Thái Lan phần lớn y áo có màu vàng nghệ.

Và ở một vài nước Phật giáo Theravada, các Tăng sĩ trong cùng một xứ đôi khi vẫn không có một màu y áo đồng nhất. Dù không có những quy định được đặt ra, nhưng các Tăng sĩ sống trong rừng thường mặc y màu nâu vàng, trong khi các Tăng sĩ ở thành thị thường mặc y màu vàng nghệ. Điều này thường bắt gặp ở Thái Lan.

Như vậy chúng ta thấy, dù Nam hay Bắc tông, kiểu thức và màu sắc của y không có một sự đồng nhất hoàn toàn. Và chính sự không đồng nhất này, Phật giáo mỗi nước đã tạo nên một nét riêng của mình qua pháp phục. Và cũng dựa vào nét riêng này, chúng ta có thể nhận ra một vị Tăng hay Ni đến từ một đất nước nào đó qua kiểu thức và màu sắc y phục mà vị ấy mặc.

Với Phật giáo Việt Nam, cũng như Phật giáo Nhật và Hàn Quốc, y hậu của Tăng sĩ ít nhiều ảnh hưởng kiểu y áo của Tăng sĩ Trung Quốc. Tuy nhiên về màu sắc, Tăng sĩ Việt Nam hầu như đều sử dụng màu vàng cho y hậu, có số ít sử dụng y đỏ (thường là các bậc trưởng lão). Và như vậy về cơ bản chúng ta có sự đồng nhất, tuy nhiên do mức độ đậm nhạt của màu sắc y hậu nên ở nước ta chỉ có một sự đồng nhất tương đối mà thôi. Bên cạnh y hậu, Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam còn có chiếc áo nhật bình (hoặc áo tràng xiên) của riêng mình. Chiếc áo nhật bình màu nâu là một nét khá đặc trưng của tu sĩ Phật giáo Việt Nam về y phục, tạo cho người tu sĩ Việt Nam có một nét "riêng" nào đó. Và với chiếc áo nhật bình nâu (sồng) này, Tăng sĩ Việt Nam đã tạo nên được một truyền thống riêng có trong pháp phục của mình!

Phật giáo đã trải qua hơn 2.500 năm, có mặt ở nhiều quốc gia và tồn tại dưới nhiều nền văn hóa dị biệt, do đó Phật giáo tại mỗi xứ tất yếu có những đặc trưng riêng, và y áo là một khía cạnh. Nhưng dù người tu sĩ khoác lên mình chiếc y màu sắc và kiểu thức gì, thì y (kasava)như ý nghĩa vốn có của nó vẫn không thay đổi. Chiếc y của người tu sĩ Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và quan trong hơn cả là nó nối kết người mặc với vị thầy Bổn sư của mình - Đức Phật; và chiếc y cũng giúp người khoác nó luôn nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình.

Sự đồng nhất hay dị biệt trong kiểu cách và sắc màu y áo do đó không phải là vấn đề cốt yếu. Điều cốt yếu là phải vượt thoát khỏi những dị biệt về sắc tướng áo y - vấn đề ít nhiều liên quan đến vấn đề bộ phái - để thấy rằng chúng ta dù không cùng "áo vuông" thì vẫn chung "đầu tròn"; và sứ mệnh cũng như lý tưởng của người đệ tử Phật, dù đang khoác lớp áo y gì, vẫn không hề khác nhau.

Thích Nguyên Hiệp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/11/2020(Xem: 6092)
Trong những năm tháng còn theo đuổi thú sưu tầm Tem & “Vật phẩm bưu chính” (phong bì FDC ngày phát hành đầu tiên, bì thư thực gửi, bưu ảnh...) về đề tài “Phật giáo”, tôi hữu duyên gặp và sở hữu được một bưu ảnh (postcard) không dán tem ,cũng như không có dấu nhật ấn của bưu điện, giá trị không cao không quý gì mấy đối với những người chuyên sưu tập tem thư, nhưng với tôi thì tôi cho là... vô giá.
03/11/2020(Xem: 5541)
Viện Đại học Phật giáo Viên (원불교대학원대학교, Won Buddhism Graduate School), một cơ sở giáo dục dựa trên tinh thần sáng lập của tông phái Phật giáo Viên (원불교), Hàn Quốc, nhằm mục đích đào tạo các cán bộ giảng dạy Phật giáo Viên. Viện Đại học Phật giáo Viên đủ điều kiện để nhận những sinh viên có bằng Cử nhân tại các Đại học Wonkwang, Đại học Younsan Sunhak. . . Đây là một trường Đại học được thành lập như một nơi để đào tạo trình độ Thạc sĩ tại Viện Đại học Phật giáo Viên.
02/11/2020(Xem: 6513)
Dù Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không tránh khỏi nạn sanh lão bệnh tử trong đời này. Là một vị Sa-môn khiêm tốn, Đức Phật đã chọn nơi nhập diệt của mình ở một làng mạc xa xôi hẻo lánh, đó là làng Kushinagar, nơi có liên hệ mật thiết đến cuộc đời tu hành của Ngài trong một kiếp xa xưa. Tuy đã chuẩn bị như thế, nhưng những ngày tháng cuối cùng của Ngài vẫn là những ngày tháng làm việc không ngừng nghỉ. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Đức Phật không ngần ngại đi bộ trên những con đường chập chùng xa tắp, lên đèo xuống dốc, băng rừng vượt suối...
02/11/2020(Xem: 6386)
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày âm lịch: - Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm đản sinh. - Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm thành đạo. - Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm xuất gia. Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa: Từ Bi hiện thực, lý tưởng Bồ tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực:
02/11/2020(Xem: 5299)
Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không? Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.
01/11/2020(Xem: 5787)
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...
01/11/2020(Xem: 4939)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4678)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 17698)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4446)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]