Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy gọi đi! Đò sẽ tới

19/09/201508:20(Xem: 9557)
Hãy gọi đi! Đò sẽ tới

Chua Phat To (1)

HÃY GỌI ĐI ! ĐÒ SẼ TỚI.

                                Huệ Trân

 

 

            Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm:

            Hiếu là độ được song thân,

            Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài”  

            Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….

            Với lòng tin ở sự vận chuyển nhiệm mầu, người con Phật thường đem sự cẩn trọng mà cư xử với nhau vì biết đâu, ai có thể là ông bà, cha mẹ, quyến thuộc mình đã ra đi và nay lại đang hiện hữu!

            Dù bất cứ tôn giáo nào, lòng chân thành luôn là yếu tố cần thiết để đạt tới sự giao cảm. Như câu chuyện có thật, về lòng chân thành của một bé gái 8 tuổi đã cứu sống em trai mình.

            Cô bé chỉ biết em mình bệnh nhiều lắm, cha mẹ đã phải dọn từ căn nhà lớn về căn nhà nhỏ mà cũng không còn tiền chữa trị cho em. Một lần, cô nghe cha mẹ thì thầm “Chỉ còn phép mầu mới cứu được Andrew, mà chúng ta biết tìm đâu ra phép mầu!”

            Nghe thế, cô bé về phòng, đập vỡ con heo đất dành dụm từ lâu, gom hết những đồng tiền cắc, rồi chạy ra tiệm thuốc đầu phố. Tới nơi, cô dốc hết gói tiền lên mặt quầy rồi nói:

            - Cháu chỉ có bây nhiêu. Cháu cần mua phép mầu.

            Người bán thuốc ngạc nhiên:

            - Em nói gì? Em cần gì?

            Cô bé nghẹn ngào:

            - Em Andrew bị bệnh nặng lắm. Cháu nghe cha mẹ nói, chỉ có phép mầu mới cứu em được. Ở đây có bán phép mầu không?

            Người bán hàng thông cảm, nhìn em và buồn rầu trả lời:

            - Chú rất tiếc, ở đây không có bán phép mầu cháu à!

            Một người đàn ông trung niên đang đứng chờ sau cô bé, nghe câu chuyện, bỗng cúi xuống hỏi nhỏ:

            - Andrew bệnh gì?

            - Cháu không biết bệnh gì ở trong đầu. Cha mẹ nói phải mổ, và phải có phép mầu.

            -Cháu có bao nhiêu tiền?

            Cô bé vội vã đếm:

            - 10 xu … 20 xu … 45 xu …. 1 đồng …. Dạ, cháu có 1 đồng 11 xu ạ.

            Trước sự ngạc nhiên của người bán hàng, người đàn ông trung niên tỏ vẻ mừng rỡ, nắm tay cô bé:

            - Ồ, may quá! Cháu có vừa đủ tiền mua phép mầu. Mau dẫn bác về nhà gặp cha mẹ và Andrew đi! Chúng ta sẽ dùng phép mầu chữa bệnh cho Andrew.

           

            Người đàn ông trung niên đó là bác sỹ Carlton Armstrong, một bác sỹ giải phẫu lừng danh của bệnh viện đa khoa trong thành phố.

           

            Cuộc giãi phẫu thành công mỹ mãn với sự đài thọ toàn bộ của bệnh viện, do bác sỹ Armstrong đề nghị.

            Bé Andrew được cải tử hoàn sinh nhờ lòng chân thành của chị. Lòng chân thành đó là năng lượng thầm lặng nhưng vũ bão, đã giao cảm được với lòng từ của vị lương y mà tạo nên phép mầu.

            Có lẽ, đối với cô bé, phép mầu có giá là 1 đồng 11 xu. Chỉ cha mẹ cô trực nhận phép mầu là vô giá!

 

            Nhớ lại câu chuyện này, tôi không khỏi bồi hồi khi Sư Phụ chúng tôi cũng vừa  “cải tử hoàn sinh” sau khi được thay gan, ở thời điểm đã cận kề cái chết!           

            Lá gan của Sư Phụ chúng tôi đòi “về hưu” từ lâu, và đã tới thời điểm nó ra tối hậu thư “Không cho nghỉ, tôi cũng nghỉ đó!”

            Để có được những phương tiện trị liệu tốt, Sư Phụ chúng tôi đã phải nghe lời khuyên của các bác sỹ, rời chùa, rời huynh đệ chúng tôi, qua tiểu bang khác để chờ lá gan hiến tặng.

            Suốt 9 tháng đợi chờ, sau 2 lần đã tới phiên được có gan hiến tặng nhưng khi kiểm tra toàn bộ thì quà tặng lại chưa đủ những yếu tố an toàn thích hợp để ghép vào cơ thể người nhận. Và đến lần thứ ba được gọi lên, cũng là khi sức khỏe Sư Phụ chúng tôi đã kiệt quệ. Tuy không nói ra nhưng chúng tôi đều nhìn nhau trong cùng ý nghĩ rằng “Dù lần này quà tặng có thích hợp nhưng liệu Sư Phụ còn đủ sức chịu đựng cuộc giải phẫu cam go này không?”

            Chư Tôn Đức khắp nơi, những vị đã từng có đạo tình với Sư Phụ chúng tôi, đều hết lòng cầu nguyện Đức Quan Thế Âm gia hộ, không phải chỉ ở thời điểm cận kề này, mà từ khi Sư Phụ chúng tôi lên đường điều trị, quý Ngài cũng đã luôn chân thành cầu nguyện. Chúng tôi từng được chứng kiến những buổi cầu nguyện đó, hết nơi này tới nơi kia. Huynh đệ chúng tôi vô cùng tri ân Chư Tôn Đức.

 

            Sau 4 tiếng chờ đợi ngoài phòng mổ, để được tin là cuộc giải phẫu đã hoàn tất, chúng tôi đều một lòng tin tưởng rằng, hậu giải phẫu dù cam go đến mức nào, Sư Phụ chúng tôi cũng sẽ vượt qua, vì bao lòng thành hướng về Sư Phụ đã giao cảm được với tâm Bồ Tát. Không có sự nhiệm mầu này thì với căn bệnh nan y mang trong người đã hơn bốn năm, sự chờ đợi lá gan hiến tặng đã hơn 9 tháng mà phút cuối, chỉ ngắn ngủi là 2 ngày, là 48 tiếng đồng hồ để phép mầu hiển lộ.

            Đó chính là lời vị bác sỹ trưởng nhóm phẫu thuật nói với chúng tôi trước khi giải phẫu: “Hai ngày nữa mà không được thay gan, e rằng khó còn hy vọng!”

 

            Tôi nhớ, một lần thính pháp, khi thuyết về lòng chân thành và sự giao cảm, giảng sư đã kết luận bằng một lời thật xúc tích: Hãy gọi đi ! Đò sẽ tới !”

            Vâng. Hãy gọi đi ! Đò sẽ tới.

            Tất nhiên, phải là những lời gọi chí thành thì “Đạo cảm thông ” mới “Không thể nghĩ bàn”

           

           Chua Phat To (1)

            Sư Phụ chúng tôi hồi phục, về lại chùa vào thời điểm Vu Lan.

            Sau những chương trình thường xuyên được tổ chức trong tinh thần Vu lan theo lời Phật dạy, Sư Phụ chúng tôi đã nghĩ sâu xa hơn về sự đền ân báo đức.   Huynh đệ chúng tôi đều nhiệt thành tuân theo ước muốn này.

            Và ngày Chủ Nhật 13 tháng 9 năm 2015, Trai Đàn Chẩn Tế Siêu Tiến Thập Loại Cô Hồn Bình Đẳng Chúng đã được long trọng tổ chức tại Đại Hùng Bửu Điện chùa Phật Tổ, do Ban Kinh Sư chùa Phật Tổ đảm trách.

            Sau khi thọ trai, với kinh nghiệm của Quý Thầy trong Ban Kinh Sư cùng với lòng nhiệt thành của đại chúng, Chánh Điện đã nhanh chóng biến đổi thành khung cảnh của một đàn tràng trang nghiêm mà trầm hương, hoa đèn và tôn tượng các vị Đại Sỹ cứu độ chúng sanh đã phảng phất hài hòa sự giao cảm âm dương.

            Đúng 2 giờ trưa, Sư Phụ chúng tôi – Hòa Thượng Thích Thiện Long, Phương Trượng chùa Phật Tổ - thành kính nguyện hương trước Phật đài, cúi xin mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng chứng giám gia hộ cho Đàn Tràng đạt được sự tri ân, báo đức tới muôn người muôn loài còn trầm luân trong biển khổ.

            Những nén nhang thơm vừa được dâng lên thì từ Phòng Tổ, Đại Đức Thường Huệ, vị sẽ đảm trách nhiệm vụ Kim Cang Thượng Sư trong Trai Đàn, cùng với hai thị giả chậm rãi bước ra.

 Chua Phat To (2)

            Thầy còn trẻ, rất trẻ đối với trọng trách hôm nay, nhưng qua sắc phục tôn nghiêm, thầy đang từng bước hiển lộ tinh thần Kim Cang Thượng Sư.

            Khi đã đứng trước Hòa Thượng Phương Trượng và cũng là Sư Phụ mình, Thầy làm phần vụ trước khi khai đàn. Đó là chắp tay kính cẩn tỏ lòng cám ơn vị tổ chức Trai Đàn, và kế tiếp là thể hiện lòng hiếu đạo của đệ tử đối với Sư Phụ.

 

            Thầy chắp tay búp sen trước trán, rồi chậm rãi, thật chậm rãi, búp sen từ từ dừng trước ngực, như để cùng trái tim, thổn thức đập những nhịp ân tình … Rồi từ trái tim, búp sen theo toàn thân thầy xuống thấp, xuống thấp, rồi hai chân quỳ, búp sen nở xòe ra, để thể hiện thế lạy cực kỳ cung kính, là 5 vóc sát đất.

            Cũng như khi quỳ lạy, Thầy đứng lên bằng động tác khoan thai và từ tốn để lập lại ba lạy như thế, tạ ơn Sư Phụ.

 

            Toàn thể hội trường chợt ngưng đọng.

            Giây phút này, ngôn ngữ mới thực vong thân, bởi không ngôn ngữ nào diễn tả cho hết nghĩa cha con sâu dầy, tình thầy trò mênh mông trong đạo vị của giáo pháp Như Lai …

            Giây phút này là giây phút mãn khai của đóa quỳnh hương. Không thể trước, không thể sau, mà đúng thời đó, đúng lúc đó thì hoa kia mới trọn vẹn. Như con sâu xấu xí phải trải trọn thời-nghiệp, mới hóa thân thành cánh bướm muôn mầu rực rỡ.

            Sư Phụ chắp tay, khép mắt, im lặng nhận ba lạy báo ân của đệ tử mà lệ nhòa hình ảnh bé trai sơ sinh mới 23 ngày tuổi đã bị bỏ trước cổng chùa. Ông thầy tu ra sân quét lá, nghe tiếng khóc, đã hốt hoảng buông chổi chạy ra, vội bế bé lên. Hơi ấm đầu tiên truyền sang nhau trở thành tình cha con, tình thầy trò, đã là hạnh phúc và khổ đau suốt hơn hai mươi năm hệ lụy …

            Giây phút này, với Sư Phụ, có lẽ là cảm xúc hoan hỷ, xứng đáng công nuôi dưỡng …

            Giây phút này, với đệ tử, có lẽ là cơ duyên toàn thiện nhất để báo ân và sám hối với người cha, người thầy đã cưu mang, nuôi dưỡng, dù bao nhiêu phiền não, khổ đau phải chịu do tuổi trẻ vô minh từng gây ra.

            Giây phút này, Sư Phụ ơi, không phải chỉ Sư Phụ cảm nhận như vậy đâu, mà huynh đệ chúng con cũng cùng được hạnh phúc như thế.

            Hạnh phúc không chỉ vì được tham dự một Trai Đàn trang nghiêm mà còn là cơ duyên được chứng kiến sự chuyển hóa nhiệm mầu của hài nhi đỏ hỏn 23 ngày tuổi bị bỏ trước cổng chùa năm xưa, đang hóa thân Kim Cang Thượng Sư với âm thanh sấm sét của Sư Tử hống “Địa ngục vị không. Thệ bất thành Phật”.

 Chua Phat To (3)

            Trai đàn chính thức bắt đầu khi vị Kim Cang Thượng Sư khải báo, qua những nghi thức ấn chú gia trì, thỉnh mời mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng thùy từ chứng giám.

            Mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát đều được thỉnh mời bằng nghi thức ấn chú riêng, nên khi đại chúng tham dự, chỉ cần giữ tâm thanh tịnh và lòng kính tin, thì mỗi động tác chậm rãi, cực kỳ tôn nghiêm của vị Thượng Sư Kim Cang đều có thể truyền đạt tới đại chúng sự hoan hỷ, như chính mỗi người đang thỉnh mời Chư Phật, Chư Bồ Tát về chứng minh.

            Suốt 4 tiếng đồng hồ liên tục, âm thanh pháp khí lồng vào mỗi phần tán tụng của tám vị Kinh Sư, tùy từng nội dung mà khi thì trầm hùng, khi thì rộn rã, khi thì réo rắt, dường như để phù hợp với căn cơ, cũng như tội chướng của thập loại cô hồn, khiến còn vất vưởng nơi đâu, bắt được tần số những âm thanh này cũng cố gắng tìm về hưởng thực, nghe kinh, hầu giải thoát khỏi trầm luân sanh tử.

 

            Trong phần kết-đàn, khi một vị Kinh Sư tuyên đọc danh hiệu Chư hương linh được thân nhân dâng sớ, thì một làn gió mát từ đâu chợt bay ngang giữa không khí oi bức suốt tuần.

            Đại chúng không ít người, bằng phản xạ tự nhiên đã nhìn ra các cửa sổ.

 

            Nhưng ai thấy được gió!

            Phải chăng đó chỉ là thông điệp:

            “Hãy gọi đi! Đò sẽ tới !”

 

 

Huệ Trân

(Phật Tổ Tự - Trai Đàn Chẩn Tế 13-9-2015)

 

           

                       

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12837)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5658)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5470)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5363)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4719)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4705)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4940)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4756)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3850)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7328)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]