Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự nghiệp người tu và tám ngọn gió đời

08/06/201703:11(Xem: 11512)
Sự nghiệp người tu và tám ngọn gió đời



tam ngon gio

 SỰ NGHIỆP NGƯỜI TU
VỚI 
TÁM
 NGỌN GIÓ ĐỜI 
 

      Đứng trước dòng thác lũ cuộc đời với vô vàn cám dỗ như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều, chúng ta khó mà vượt qua những nhu cầu cần thiết đó vì nó có sức hấp dẫn lạ thường, hay lôi cuốn, chi phối con người vào chỗ đam mê, say đắm. Cho nên, lúc nào ta cũng sống với hai tâm trạng vui-buồn lẫn lộn bởi tốt-xấu, hơn-thua, nên-hư, thành-bại, được-mất trong cuộc đời mà đón nhận kết quả khổ đau hay hạnh phúc.

     Ta muốn thưởng thức những đóa hồng đẹp thì phải chấp nhận thân gai góc của nó. Hoa hồng mềm mại, thơm tho và đẹp đẽ nên ai cũng thích ngắm nhìn, thưởng thức hương vị ngọt ngào của nó nhưng trên thân hoa lại có nhiều gai góc. Nếu muốn thưởng thức sự tinh khiết của hoa thì ta phải chấp nhận thân gai góc. Cũng vậy, thân ta vô thường bại hoại nên mới bị sự chi phối của già-bệnh-chết, nhưng ngay nơi thân này có tính biết sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, thấy tức biết; nương nơi tai thì nghe thấu mọi âm thanh sai biệt của muôn loài vật nên nghe chỉ là nghe; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

     Người lạc quan luôn nhìn đời với các vì sao lấp lánh nằm trên bầu trời quang đãng, sáng trong. Chính vì vậy họ thấy thế giới luôn tươi vui, xinh đẹp như những đóa hoa hồng. Người bi quan thì thấy thế giới là cả một bầu trời đen tối chỉ toàn khổ đau nên thấy rất nhiều hầm hố, chông gai. Với người biết sống một cách thực tế thì thấu rõ chân lý của cuộc đời nên thấy thế giới không hoàn toàn tươi vui, xinh đẹp như hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn nhiều gai góc.

    Trong cuộc sống những ai có hiểu biết chân chính và nhận thức sáng suốt thì không đam mê, say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng. Họ nhìn thấy hoa hồng chỉ là hoa hồng và vẫn biết rõ trong hoa hồng phải có chất liệu của gai nên luôn cẩn thận để khỏi bị gai làm đau nhức.

     Hoa hồng tượng trưng cho bốn hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống như được lợi lộc, được khen ngợi, được tán thán và được vui vẻ. Gai góc thì được ví như bốn sự không hài lòng, vừa ý trong cuộc sống như bị mất mát, bị chê bai, bị hủy nhục và bị khổ đau. Đã làm người trong cuộc sống tất cả chúng ta đều phải trực diện với các hoàn cảnh ấy dù ít hay nhiều trong dòng đời nghiệt ngã này. Ai có đủ khả năng, ý chí, nghị lực, trí tuệ và sự sáng suốt thì sẽ vượt qua Tám cơn gió lốc của cuộc đời để thành tựu Phật đạo mà cùng nhau chia vui sớt khổ trên tinh thần vô ngã vị tha; nhà Thiền thường gọi là “Tám gió thổi chẳng động”.

    Đời người ít nhiều ai cũng trải qua sự thăng trầm của cuộc sống, khi thì được lên voi, lúc thì bị xuống chó, cứ như thế ta phải đối diện với nó để chấp nhận quả an vui, hạnh phúc hay phiền muộn, khổ đau. Trong cuộc sống thực tế những việc tốt đẹp chúng ta thường gọi là may mắn hoặc “hên”, hay còn gọi là khi không, ngẫu nhiên; nhưng chúng không đến với ta hai lần hoặc đến một lượt để ta được vui hưởng trọn vẹn. Ngược lại, những chuyện không được hài lòng, vừa ý mà ta thường gọi là không may mắn, hay xui xẻo lại cứ đến dồn dập hết chuyện này đến chuyện khác làm cho ta đau khổ vô cùng.

     Với những người quá yếu đuối, kém cỏi, tinh thần bạc nhược thì rất dễ hoang mang, lo lắng và sợ hãi nên luôn tìm cách trốn chạy cuộc đời bằng liều thuốc độc. Trái lại, những người đã tin sâu nhân quả thì luôn bình tĩnh, thản nhiên chấp nhận quả khổ đang dồn dập đến mà tìm cách tu tâm dưỡng tánh để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

    Tôi bây giờ có nhân duyên xuất gia học đạo, được gặp bậc minh sư chân chính tận tình chỉ dạy, so với ngày xưa tôi tiến bộ quá nhiều, có thể nói là vượt bậc ngoài sức tưởng tượng nhưng so với Tám gió thì tôi chưa hoàn toàn qua khỏi gió nào. Có lúc tôi đứng sừng sững như quả núi lớn không gì có thể chuyển lay mỗi khi giữ được Chánh niệm tỉnh giác, nhưng khi bất giác thì một chút gió cũng làm cho tôi nghiêng ngã, trượt dài trong si dại.

    Cho nên, ai đã lỡ lầm huân tập thói quen xấu quá nhiều thì hãy nên cố gắng, thận trọng trong việc tu tập mà chăn giữ từng ý niệm của mình, đừng để cho nó phát sinh. Vì lẽ đó mà nhà Thiền có câu: “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.

    Khởi nghĩ đủ thứ chuyện trên đời là thói quen thâm căn cố đế của mỗi người chúng ta, do đó ta phải thường xuyên Chánh niệm tỉnh giác để điều phục ý nghĩ của mình, đừng để chúng dẫn ta lăng xăng chạy suốt đầu trên xóm dưới. Đó là nghệ thuật chăn trâu, chúng ta chỉ làm một việc duy nhất làm sao đừng để con trâu phạm vào lúa mạ của người. Khi mới tu ta chưa đủ sức làm chủ con khỉ ý thức nên suốt ngày ta cứ lăng xăng dính mắc phải quấy, tốt xấu, đúng sai, ta người.

     Do đó, Phật đưa ra nhiều phương pháp để giúp chúng ta chuyển hóa chúng tùy theo khả năng và sở trường của mỗi người. Chúng tôi cảm thấy rất hổ thẹn cho cuộc đời tu hành của mình vì hiện giờ chỉ một gió được-mất thôi cũng đủ làm chúng tôi trượt dài trong si dại, nhưng tôi còn biết mình vọng động điên đảo nên luôn dặn lòng phải cố gắng nhiều hơn để chuyển hóa con khỉ ý thức u mê, tối tăm thành trong sáng, hiện thực mà có cơ hội được kết nối yêu thương cùng với tất cả mọi người.

     Đây là một sự thật đối với cuộc đời của tôi, chúng ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong việc tu tập để chuyển hoá phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Trong nhà Thiền có câu châm ngôn bất hủ dùng để răn nhắc mọi người chúng ta như sau:

Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ,

Việc lớn đã sáng cũng như đưa ma mẹ.

     Tại sao có chuyện lạ đời như thế? Khi chưa nhận ra đạo lý chân thật thì ta phải cố gắng tu hành miên mật như một người con tiếc nuối, nhớ thương khóc đưa đám ma mẹ. Lúc này đứa con không còn thiết nghĩ đến chuyện gì khác mà chỉ một lòng khóc lóc, tiếc nhớ thương mẹ mà thôi. Ai đã từng có cha mẹ mất sẽ biết rõ điều này, nhưng khi chúng ta đã ngộ đạo rồi thì cũng như đưa đám ma mẹ là sao?

     Khi ngộ rồi ta chỉ mới nhận ra cái nhân thành Phật mà thôi nên đa số các vị Thiền sư phải bỏ vào núi để làm tròn nhiệm vụ ấy. Ngài Quốc sư Huệ Trung khi ngộ đạo rồi phải ở núi đến 42 năm mới xuống núi để giáo hóa chúng sinh, lúc này dù có mười tám gió thổi tới cũng không làm gì được Ngài. Vậy Tám gió là gì mà nó có sức tàn phá, hủy diệt con người đến nỗi phải thất điên bát đảo như thế?

Tám ngọn gió đời làm mọi người tranh giành giết hại lẫn nhau

 Phật chỉ dạy Tám gió này để làm thước đo người tu hành; đó là gió được-mất, danh thơm-tiếng xấu, khen-chê, khổ-vui. Tám gió này có bốn cặp đối đãi nhau. Một là hưng thịnh, lợi lộc thì gọi là được; còn suy sụp, điêu tàn thì gọi là mất. Hai là được khen ngợi hay bị chê bai, nói cho đầy đủ là được khen và bị chê trước mặt mọi người. Ba là được xiển dương, tán thán hay bị phán xét, chỉ trích, vu oan giá họa trước đám đông. Bốn là phiền muộn, khổ đau hay an vui, hạnh phúc; nói gọn lại là khổ và vui, hai điều này luôn xảy ra nhiều nhất trong cuộc đời tu hành của chúng ta.

     Trong cuộc sống hằng ngày, các nhà lãnh đạo, các nhà kinh doanh, các nhà giáo dục, các nhà tâm linh, cho đến kẻ làm thuê làm mướn đều phải theo nguyên tắc và lệ thuộc vào cả hai cặp đối đãi được và mất. Người lãnh đạo đang có nhà cao cửa rộng, nhiều tài sản, đang sống một đời vương giả sung túc, đầy đủ với mọi nhu cầu cần thiết trong cuộc sống thì gọi là được; vì cuộc sống gia đình được đầy đủ, sung mãn về hai mặt phước và lộc. Có phước là giàu có, sang trọng; hưởng lộc là uống rượu, ăn thịt, vui chơi thỏa thích nhờ biết đóng góp nhiều công sức cho xã hội. Ngược lại, đang được đầy đủ và sung túc như thế mà bỗng nhiên bị thân bại danh liệt, dính vào vòng tù tội, mất hết tất cả quyền cao chức trọng, gia đình đổ vỡ, tan nát thì gọi là mất.

    Các nhà kinh doanh khi làm ăn thuận buồm xuôi gió, tăng trưởng được nhiều lợi nhuận nhờ biết tiếp thị đúng nhu cầu cần thiết theo sự tham muốn của con người, nhất là các mặt hàng ăn uống không thể thiếu trong đời sống hằng ngày. Lúc được lợi nhuận ai cũng cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc và thỏa mãn. Trong thực tế, nó là nhu cầu cần thiết cho mỗi cá nhân và gia đình.

    Khi được lợi nhuận như vậy chúng ta sinh ra vui mừng, thích thú mà một người bình thường ai cũng có thể tự hào, hãnh diện khi được như thế. Họ thu được lợi ngày càng nhiều nên cảm thấy hân hoan, vui vẻ, đón nhận hạnh phúc bằng sự say mê trong tham đắm.

    Các nhà giáo dục luôn hy sinh tận tụy với nghề dạy của mình, họ mong đào tạo được thế hệ tương lai, sản xuất ra các bậc hiền tài để đóng góp, phục vụ lợi ích cho xã hội. Họ có niềm vui trong dạy học, đào tạo nhân tài để đảm bảo đời sống gia đình và điều mong muốn duy nhất của họ là có nhiều nhà lãnh đạo tài ba lỗi lạc từ sự hướng dẫn, dạy dỗ của họ.

    Thế giới ngày nay nền văn minh khoa học vật chất tiến bộ và phát triển quá nhanh giúp con người sống tiện nghi, vật chất đầy đủ, hưởng thụ cuộc sống như ý làm con tim sung sướng đến tuyệt đỉnh. Hạnh phúc như vậy dù là vật chất hay tinh thần đều dẫn đến khỏe mạnh và sống lạc quan, yêu đời.

    Các nhà tâm linh thì đi ngược lại dòng đời với trách nhiệm và bổn phận hết sức lớn lao, họ trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Muốn được như vậy họ phải cố gắng tu tập để chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Sau khi thành tựu họ phải dấn thân phục vụ vì lợi ích chúng sinh với tinh thần thương yêu đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Nếu làm như vậy mà không bị bức bách bởi các phiền não tham-sân-si chi phối thì ta gọi đó là được an nhiên, tự tại.

    Người tu hành lấy tám gió làm thước đo

Có câu chuyện thiền như sau: Một hôm, Thiền sư Phật Ấn nói chuyện đạo lý theo lời thỉnh cầu của Phật tử, Tô Đông Pha nghe tin đến để nghe pháp. Trong giảng đường mọi người đã ngồi chật kín không còn chỗ trống nào, Thiền sư thấy Tô Đông Pha đến mà hết chỗ ngồi bèn nói: “Ở đây không có chỗ cho quan lớn ngồi, xin cảm phiền chờ dịp khác.” Tô Đông Pha cũng không vừa gì liền dùng Thiền ngữ để trả lời lại: “Nếu không có chỗ xin cảm phiền Thiền sư cho mượn thân tứ đại để làm tòa ngồi.”

    Thiền sư nói: “Vâng, tôi sẽ cho quan lớn mượn thân tứ đại này với điều kiện Ngài phải trả lời được câu hỏi của tôi, nếu không đáp được xin quan lớn cảm phiền cởi đai ngọc trên thân để lại cho chùa làm kỷ niệm.”

    Tô Đông Pha tự thấy mình văn hay chữ giỏi nên nhận lời ngay mà không biết khéo léo tìm cách từ chối. Thiền sư nói: “Tứ đại vốn không, Năm ấm chẳng có, xin hỏi quan lớn phải ngồi chỗ nào?” Tô Đông Pha tuy có miệng nhưng đớ lưỡi nói không được vì thân này do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp, không thật có, làm sao có chỗ ngồi cho quan lớn. Tô Đông Pha đành cứng họng mà cởi đai ngọc để lại cho Thiền sư, đến nay vật đó vẫn còn lưu giữ trong chùa Kim Sơn.

    Một thời gian sau, Tô Đông Pha sáng tác một bài thơ và tự cho là tuyệt tác không chê vào đâu được, ông bèn cho người đem tặng Thiền sư Phật Ấn lúc bấy giờ đang ở chùa Kim Sơn. Nguyên văn bài thơ của cư sĩ Tô Đông Pha như sau:

Thân tâm cúi lạy bậc giác ngộ,

Hào quang tỏa sáng khắp muôn nơi,

Tám ngọn gió đời thổi chẳng động,

Ngồi vững tòa sen, dáng nghiêm trang.

    Quan lớn này lần trước đến đấu lý với Thiền sư đã thua một trận nên phải cởi đai ngọc để lại, ngày hôm nay lại muốn giở trò gì đây? Thiền sư Phật Ấn xem qua bài thơ thấy nghĩa lý rất hay nhưng biết quá rõ Tô Đông Pha do tình thức bén nhạy nên làm thơ nhờ văn hay, chữ giỏi chứ không phải do siêng năng, tinh tấn tu hành ngộ đạo.

     Thay vì khen ngợi Tô Đông Pha để khích lệ, Thiền sư ngược lại liền cầm bút phê vào hai chữ “hạ phong”, tức là “đánh rắm”, và bảo gia nhân đem về trình lại cho cư sĩ Tô Đông Pha. Quả như điều Thiền sư Phật Ấn đã dự đoán, Tô Đông Pha sau khi xem lời nhận xét của Ngài xong liền đùng đùng nổi giận, lập tức một mình chèo thuyền vượt sông sang chùa Kim Sơn để hỏi ngài nguyên nhân vì sao lại vậy.

    Thiền sư Phật Ấn biết trước nên ra bờ sông đón, Tô Đông Pha vừa gặp Ngài liền lớn tiếng trách móc: “Bài thơ của tôi sai sót ở chỗ nào mà Thiền sư dám phê vào hai chữ “đánh rắm” như thế?”

     Thiền sư Phật Ấn mỉm cười rồi hỏi: “Quan lớn nói Tám gió thổi chẳng động, sao bây giờ một mình chèo thuyền qua sông? Chỉ một cái đánh rắm mà quan lớn đã như thế, huống chi là phong ba bão táp.” Lúc bấy giờ, Tô Đông Pha mới nhận ra mình chỉ hiểu biết suông trên văn tự, chữ nghĩa mà thôi nên mới bị một chút gió đã bay bổng tận trời xanh, nói chi đến Tám gió thổi chẳng động. 

    “Bát phong trong nhà Phật” nghĩa là Tám ngọn gió đời, là Tám pháp thế gian, là thước đo người tu hành chân chính. Tám gió này hay làm con người vọng động, điên đảo mà sinh ra vui vẻ, hạnh phúc hoặc phiền muộn, khổ đau. Cư sĩ Tô Đông Pha chỉ giỏi nghiên cứu, học hiểu suông mà không chịu áp dụng tu tập nên tình thức nhạy bén mà cảm tác ra bài thơ và cứ tưởng như thế là ngộ đạo. Do đó, cư sĩ mới hãnh diện, tự hào mình là con cháu nhà Thiền chánh tông nên mới làm bài thơ để khoe với Thiền sư.

     Không ngờ chẳng những Thiền sư không khen mà con phê vào đó hai chữ “đánh rắm” như tạt một gáo nước lạnh vào mặt làm ông đau điếng, liền biết ăn năn sám hối mà nhận ra lỗi lầm của mình. Từ đó, cư sĩ càng thêm kính trọng Thiền sư Phật Ấn nhiều hơn.

    Cuộc sống của chúng ta chẳng mấy khi được bình yên, hạnh phúc thật sự, mới vừa được thì lại mất, cứ như thế mà xảy ra hằng ngày vì luôn bị Tám ngọn gió này thổi cho tan tác. Chính vì vậy, chúng ta muốn thiết lập hạnh phúc, an vui trong đời sống hằng ngày thì phải biết giữ vững tâm ý khi tiếp xúc, nói năng, làm việc cho có chừng mực mới không bị Tám ngọn gió đời này chi phối.

    Bởi khi được thì ta vui vẻ cảm nhận hạnh phúc, khi mất thì lo lắng, buồn rầu, khổ đau. Thiền sư Phật Ấn chẳng giảng Kinh, thuyết pháp gì cao siêu mà chỉ nương ngay bài thơ của Tô Đông Pha phê vào hai chữ ''đánh rắm'' để ông thức tỉnh mà biết cách quay lại chính mình, tìm về cội nguồn hạnh phúc.

    Qua câu chuyện trên chúng ta thấy được một bài học thiết thực trong cuộc đời. Nếu ta chỉ học hiểu lý luận suông trên ngôn ngữ mà không thật tâm hành trì chuyển hóa là mình chỉ Thiền trên môi mép, miệng lưỡi mà còn kẹt vào văn tự, chữ nghĩa như cư sĩ Tô Đông Pha mà thôi.

    Tuy nhiên, Tám ngọn gió đời là giả cảnh huyễn hóa không thật, lúc có lúc không, khi duyên với trần cảnh mà tâm ưa thích thì sinh tham lam, đắm say, mê muội. Cho nên, tham được thì càng thêm tham, đến khi tham không được thì sinh ra sân giận, hờn mát trong lòng mà khởi tâm ưa ghét, thù hận nên càng làm ta bất an, đau khổ. Người Phật tử chân chính sẽ biết chúng là giả có, vì ta biết mình có tâm thanh tịnh sáng suốt, chân thật nên không bị Tám ngọn gió này cuốn trôi.

     Khi được tài lộc ta không nên quá vui mừng, vì không vui mừng nên tâm không xao xuyến, vọng động. Khi sa cơ thất thế, tài sản bị hao hụt, mất mát, thậm chí dẫn đến tán gia bại sản mà ta vẫn thản nhiên, lòng không dao động. Khi bị phao du, hủy nhục trước đám đông, chuyện không đúng sự thật làm mọi người hiểu lầm, nghi ngờ ta là người xấu xa, đê tiện nhưng ta vẫn bình tĩnh, an nhiên, không tỏ ra thái độ bực tức, giận hờn.

     Khi được tán thán, công kênh trước đám đông lòng ta vẫn trước sau như một, tâm không hề lay động. Khi bị chê bai, chỉ trích quá đáng ta vẫn một lòng an nhiên, không phiền muộn. Khi được ai khen ngợi quá đáng ta vẫn thản nhiên, không vội mừng vì chưa biết rõ lời khen đó đúng hay sai. Khi gặp khổ đau, trắc trở ta không oán trời trách đất, đổ thừa tại-bị-thì-là… mà một lòng giữ vững niềm tin không dao động. Khi gặp việc vui ta cũng không quá mừng mà tâm bị xao động, lăng xăng.

     Cho đến khi đối đầu với mọi hoàn cảnh dù thuận hay nghịch, dù đúng hay sai, dù tốt hay xấu, dù được hay mất ta vẫn an nhiên, bình thản đón nhận như chúng là một thực tại nhiệm mầu. Vậy ai trong chúng ta xứng đáng đạt được danh hiệu “Tám gió thổi chẳng động”?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12869)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5674)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5482)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5683)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4732)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4720)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4953)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4772)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3862)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7345)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]