Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Danh bắt đầu bằng họ Thích có ở Việt Nam từ bao giờ

28/08/201007:58(Xem: 8043)
Pháp Danh bắt đầu bằng họ Thích có ở Việt Nam từ bao giờ
Pháp Danh bắt đầu bằng họ Thích có ở Việt Nam từ bao giờ: Chúng tôi là một nhóm e-mail thường trao đổi nhau về những kinh sách và lời Phật dạy. Hầu hết anh chị em trong nhóm đều là Phật tử. Chúng tôi có cái thắc mắc mà không ai giải đáp được, đó là Pháp danh bắt đầu bằng họ của Đức Thế Tôn như HT Thích Thanh Từ, TS Thích Nhất Hạnh, HT Thích Minh Châu... có ở Viết Nam từ hồi thế kỷ nàọ?

Thí dụ vua Trần Nhân Tôn khi quí y thì được gọi là Điều Ngự Giác Hoàng và tự xưng là Trúc Lâm Đầu Đà.. Vậy thì vào lúc đó đã có pháp danh Thích chưa?

TRẢ LỜI:Phật Giáo Việt Nam theo truyền thống Bắc tông, chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi PG Trung quốc, thế nên việc lấy họ Thích làm pháp danh cũng là do Phật Giáo Trung quốc truyền sang. Người đầu tiên trong lịch sử PG Trung Quốc sử dụng pháp danh họ Thích là ngài Đạo An (312-385), một danh tăng lỗi lạc thời Đông Tấn. Suốt đời Ngài chỉ lo hoằng dương chánh pháp, đệ tử theo học có đến hàng ngàn người, đều đuợc Ngài ban cho pháp danh mở đầu bằng họ Thích, vì tự xem mình như là những trưởng tử của Như Lai (Thích tử), nên Ngài cũng có tên là Thích Đạo An. Trước Ngài, pháp danh của các Tăng sĩ đều lấy tên quốc gia hay tên của thầy mình để làm họ, ví dụ như sư phụ của Ngài là Trúc Phật Đồ Trừng (người nước Thiên Trúc). Ban đầu pháp danh của Ngài lấy theo họ của Thầy là Trúc Đạo An, sau này mới đổi lại là Thích Đạo An. Chúng tôi mời quý độc giả xem bài dưới đây để biết rõ lai lịch về chữ Thích:

LUẬN GIẢI VỀ CHỮ THÍCH
Trích: Giải Luận Giáo Lý của tác giả Giác Không
do Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn.

Gần đây, có nhiều người nêu ra một thắc mắc khi thấy danh hiệu của các vị Tăng Sĩ đều mở đầu bằng chữ Thích tỷ dụ như Thích-Tâm-Châu, Thích Tâm Giác, v.v… và do đó nêu lên những câu hỏi:

- Chữ Thích có nghĩa gì?

- Tại sao người tu theo hạnh xuất thế mới dùng chữ Thích? Người tại gia tu Phật có dùng chữ Thích được không?

- Chữ Thích nếu là một họ thì họ ấy phát sinh tự đâu, thịnh hành vào thời nào?
với mục đích diễn xướng và luận giải về chân nghĩa những danh từ Phật Giáo, đặng làm tài liệu nhận xét chung, nơi đây đề cập đến từng vấv đề giải đáp để cùng liễu giải và xác luận:

I. Chữ Thích có nghĩa gì?

Theo sự dịnh nghĩa danh tự thông thường thì chữ Thích có nghĩa: cổi ra, nới ra, giải thích rõ ràng nghĩa sách tỷ dụ như chữ Thích-Hỗ là giải thích cho rõ nghĩa một chữ, một câu: Thích Huấn là giải thích cho rõ những lời huấn giáo.

Ngoài ra, chữ Thích lại cũng có nghĩa buông thả như trong sách có chữ: “Kiên trì bất thích” tức là giữ vững không buông, và, chữ “Khai thích vô cô” tức là buông tha cho kẻ không tội.

Chữ Thích cũng lại còn có nghĩa tiêu tan hết những nỗi sân hận trong lòng như giảng câu “Tâm trung vi chi thích nhiên” phải hiểu rằng trong lòng đã được tiêu tan hết cả phần nào điều sân hận không còn vướng vấp một chút ân hận, não phiền gì nữa.

Tuy nhiên, chân nghĩa chữ Thích mà các vị tu hành đặt trước pháp hiệu chỉ có nghĩa đơn thuần là:

a) coi mình là Thích tử, tức là đệ tử của Phật, bởi theo quan niệm Trung-Hoa từ đời Tấn cho rằng những ai theo đạo của đức Thích-Ca phải nên lấy theo họ Thích mà chữ Thích tức là họ Thích-Ca cho dễ xưng hô.

b) một vị tu theo hạnh khoáng nhiên không vướng mắc phiền não thế cảnh.
Tóm lại thì chữ Thích chư Tăng hay dùng là theo họ Phật Thích-Ca, ngụ kỳ chung còn có ý nghĩa hiểu rành sự lý, tâm hồn buông thả, tiêu hết não phiền, không còn mảy may trần lụy.

II. Tại sao người tu theo hạnh xuất thế mới dùng chữ Thích? Người tại gia tu phật có dùng chữ Thích được không?

Thật ra, khi Phật giáo truyền qua Trung-Hoa vào khoảng thời Hán, những vị mặc dầu tu theo đạo Phật, trở thành Tăng-sĩ có bỏ đi giòng họ thế tục, nhưng thường theo hai điều kiện:

1. Tự đặt cho mình theo họ Trúc có nghĩa tu theo nguyên tắc tu trì của các bậc Tăng-Già từ Tây-Trúc truyền sang.

2. Hoặc theo họ của bậc Sư-Trưởng đã truyền giáo cho mình tỷ dụ như Ngài Chi-Tuần nguyên trước họ Quan, nhưng vì thụ giáo với ngài Chi-Khiêm nên đổi thành họ Chi, ngài Bạch-đạo-Hiển nguyên họ Phùng nhưng học thầy là Bạch Thi Ly Mật nên đổi thành họ Bạch v.v…như vậy là khi đạo Phật mới truyền qua Trung-Hoa từ đời Hán, khoảng 25 - 220 T.L. hầu như theo một tục lệ thông thường như vừa trình bày. Kịp đến thời Đông-Tấn khoảng 317 - 349 T.L. Ngài Đạo-Anngười Thường-Sơn, tỉnh hà-Bắc, sinh năm 312, xuất gia từ 12 tuổi, học hạnh rất siêu việt đã đề xướng việc cải biến để những vị tu hạnh xuất-gia theo Phật nên theo họ của Phật, và do đó, những Tăng-sĩ thụ đại-giới (Giới Tỳ Khưu: 250 giới) lấy theo họ Thích tử.

Viện dẫn lý do này, Ngài Đạo-An nêu ra một đoạn trong kinh Tăng-Nhất A-Hàm có chép: “Bốn con sông lớn chảy vào bể cả, tự nó không còn danh tự gốc của con sông mà chỉ có danh tự là “bể cả”. Việc định họ cho người tu hành cũng như thế. Xưa ở Ấn-Độ có 4 giòng họ là: Sát-Lỵ, Bà-La-Môn, Trưởng-giả, Cư-sĩ. Đối với những ai gọt bỏ râu tóc, khoác 3 tấm áo pháp như Phật chế định, nguyện xin xuất gia học đạo thì không còn giữ giòng họ gốc mà chỉ kêu là: Sa-Môn tức là đệ-tử của đức Phật Thích-Ca mà thôi.

Trong kinh Đại-Bát Nhã xác định rằng: “Phi sa-Môn, phi Thích-Ca tử” có nghĩa nếu không phải là bậc Sa-Môn tức là bậc xuất-gia theo Phật thì chưa phải là đệ-tử của đức Thích-Ca.

Bởi những lý do trên, chỉ khi nào phát nguyện xuất-gia và đã thụ đại-giới mới được xưng là thuộc giòng họ Thích tức là đệ-tử chính của Phật và sau nầy coi các bậc Tỳ-Khưu là hàng trưởng-tử của Phật nên được đổi họ thế gian mà lấy theo họ Thích vậy.

III. Chữ Thích nếu là một họ thì họ ấy phát sinh tự đâu?
Thịnh hành vào thời nào?

Đúng ra họ Thích-ca là họ của đức Phật mà theo lịch sử là một giòng họ quý tộc trước đó kêu là Sát-Lỵ mà sau đổi ra là Thích -Ca (Sakya).

Theo kinh điển ghi chép thì 10 vị đại đệ-tử của Phật như Ma-Ha Ca-Diếp, Mục Kiền Liên, Tu-Bồ-Đề v.v… không dùng họ Thích mà khi Phật-Giáo truyền qua Trung Hoa tới thời nhà Tấn, Ngài Đạo-An xướng xuất việc lấy họ Thích làm họ cho người đi xuất-gia, rồi từ sự kiện, chính Ngài theo phong tục cổ truyền, trước đó theo học với Ngài Trúc-Phật Đồ-Trừng ngài Đạo-An lấy luôn tên là Trúc Đạo An và sau vì lấy cớ những người đi xuất-gia đều lấy đấng Thích-Tôn làm gốc, vì thế Ngài đổi tên là Thích-Đạo-Ancho đến sau nữa Ngài Thích-Tuệ-Viễn nối nghiệp thầy mà cũng xưng là Thích-Tuệ-Viễn. Kịp đến thời nhà Đường, Ngài Tuệ-Năng khi dâng sớ lên Vua Đường Cao -Tôn để xin cáo từ việc cớ già yếu hay bệnh cũng xưng là Thích-Ca Tuệ-Năng.

Như thế, họ Thích là sự thay đổi của giòng họ Sát-đế-Lỵ, một giòng họ quý phái thuộc Ấn-Độ, cho đến khi Phật-Giáo truyền qua Trung-Hoa và thịnh hành từ sau sự khởi xướng của Ngài Đạo-An thời Đông-Tấn.

Riêng tại Việt-Nam có lẽ cũng chỉ quan niệm một vị xuất gia theo Phật là thuộc giòng Thích-tử, còn trong sử sách, danh hiệu các vị Thuyền-sư không mấy khi có thêm chữ Thích, ví dụ như Ngài Cảm-Thành, Ngài Khuông-Việt, Ngài Viên Chiếu v.v… Cho mãi đến thời gần đây mới có Điều-Ngự-Tử Thích-Mật-Thể, một vị khởi xướng dùng chữ họ Thích để ký tên trong văn liệu là cuốn Việt-Nam Phật Giáo Sử Lược ấn hành vào năm 1943 và có thể là một khởi đoan phong trào lấy họ Thích đối với Tăng chúng Việt-Nam.

Tóm lại, chữ Thích là danh xưng của một giòng họ y theo giòng họ của đấng Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, có nghĩa theo chữ Phạn Sakya tức là bậc Năng-nhân tức là một bậc có năng lực phát hiện tấm lòng nhân từ vô lượng.

Ngoài ra, theo chân nghĩa thế gian thì chữ Thích cũng có nghĩa khiến lòng mình tiêu tan hết mọi phiền não, một hạnh quý giá của người tu hành những pháp môn quý giá. Do đó, chỉ những vị nào đã thụ đại-giới tức là một vị chính thức gia-nhập Thích-Môn mới được coi là hàng Thích-Tử.

Cũng vì thế, những người tại gia cho đến hàng Sa-Di mà lấy họ Thích là một sự kiện tiếm xưng, và cũng nhân y theo chân nghĩa luận giải, những vị nào dù có hình tướng xuất-gia mà không giữ theo giới hạnh của bậc xuất-gia mà dùng chữ Thích cũng là tiếm xưng họ Phật, bởi những người tu hành mà không giữ giới thì không còn Tăng cách và không xứng đáng là người Thích-Tử nữa vậy.

Họ Thích rất cao đẹp, nhưng phải được nêu lên đối với những bậc tu hành chân chính, đầy đủ đức hạnh đáng cho tín đồ củng phục thì không cần phải xưng họ Thích mà thiên hạ đều tôn là bậc xứng đáng trong giòng họ Thích-Ca vậy.

Trích: Giải Luận Giáo Lý của tác giả Giác Không do Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2012(Xem: 4725)
“Lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và làm nở hoa cho cuộc sống’’đó là lý tưởng giải thoát, giác ngộ, thoát ly sanh tử, mà người Tu và mọi người Phật tử phải hướng đến và đạt cho được, để tự thân được an lạc hầu làm điều kiện căn bản xây dựng gia đình hạnh phúc, giúp xã hội được bình an, góp phần vào kiến tạo hoà bình cho thế giới, và Tinh độ nơi trần gian.
27/10/2012(Xem: 6075)
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm.
26/10/2012(Xem: 4035)
Hỏi:Trong năm nay, giáo sư đã đi giảng dạy ở hai mươi sáu quốc gia. Xin giáo sư chia sẻ sự quan sát của mình về việc đạo Phật đang lan truyền đến những vùng đất mới ra sao. Đáp:Phật giáo đang lan truyền một cách nhanh chóng khắp thế giới hiện nay. Có những trung tâm Phật pháp ở nhiều quốc gia Âu châu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Phi, Úc, Á châu và v.v… Chúng ta thấy có các Phật tử tại Âu châu, không chỉ ở những nước tư bản Tây phương, mà còn ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông phương nữa. Thí dụ như Ba Lan có khoảng năm nghìn Phật tử hoạt động tích cực. Đạo Phật rất có sức lôi cuốn đối với thế giới hiện đại, bởi vì nó hợp lý và dựa trên nền tảng khoa học. Đức Phật đã nói, “Đừng tin tưởng bất cứ điều gì ta nói chỉ vì lòng tôn kính đối với ta, mà hãy tự mình thử nghiệm nó, phân tích nó, giống như các con đang mua vàng.” Con người hiện đại ngày nay thích một sự tiếp cận không độc đoán như thế.
25/10/2012(Xem: 6377)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
25/10/2012(Xem: 6979)
Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái.
24/10/2012(Xem: 4737)
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm. Tại sao chúng ta phải tập nghĩ tốt cho người? Vì người ta thường có thói quen thấy cái xấu mà ít thấy cái tốt của người. Nhất là khi đã có thành kiến với ai thì lại càng cố nhìn những cái xấu của người nhiều hơn, và khi đã ghét ai thì đến cái cửa, cái cổng cũng ghét luôn, nên người biết tu rồi thì phải tập nghĩ đến cái tốt của người khác.
22/10/2012(Xem: 5520)
Sau khoá sám hối và toạ thiền buổi tối mùng 1 tháng 2 chùa Ba vàng trở nên tĩnh lặng. Bỗng xuất hiện một xe ô tô cấp cứu, trên xe là một chú bé có hình dạng mặt thật là ghê sợ, mặt chú lồi về phía trước như một quả bòng, 2 mắt cũng lồi lấm lét ở cuối đuôi mắt, gần 2 thái dương
21/10/2012(Xem: 4491)
Dường như người Nhật Bản rất thấm nhuần và áp dụng giáo lý đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày, cho nên họ quí trọng xem con người đều bình đẳng vì cùng có Phật tánh như nhau, chứ không dựa vào dáng vẻ giàu nghèo bên ngoài, thường xuyên làm chuyện phải có lợi ích cho người khác, cũng như không dám trộm cắp, hại người, để được nghiệp quả tốt. Chuyện thứ nhất: Trung thực
18/10/2012(Xem: 5417)
Trong cuộc sống, hằng ngày mỗi buổi sáng khi thức dậy, chúng ta suy nghĩ làm sao có tiền, có tình, có địa vị, có thức ăn ngon, có ngủ nghỉ thỏa thích. Để được hưởng thụ những thứ đó, chúng ta phải tính toán, làm việc vất vả, thậm chí nhúng tay vào tội lỗi. Rồi một ngày nào đó theo định luật sinh, trụ, dị, diệt, chúng ta nhắm mắt tắt hơi, bỏ lại những thứ mình ham muốn, suốt đời khổ cực tìm cầu. Đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hai bàn tay trắng, chỉ còn nghiệp theo mình, đưa mình đến một trong sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A–tu–la, người và trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567