Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Để việc đi cúng là hoằng pháp đúng nghĩa

17/07/201022:21(Xem: 9527)
Để việc đi cúng là hoằng pháp đúng nghĩa


phat_2 (13)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.

 

Người viết là một kẻ xuất gia nên ít nhiều có thể nhận ra những chuyện vui buồn, ái ố phát sinh từ hiện tượng phức tạp và sinh động này. Bàn về việc đi cúng, người viết mong mỏi góp phần xây dựng một thái độ ứng xử khả dĩ trước thực tế đã và đang xảy ra trong hiện tình sinh hoạt của Phật giáo, dù ở bất cứ thời đại nào.

Vài nét về lịch sử vấn đề

Nếu nương vào định nghĩa sơ khởi ở trên thì đức Phật là người đầu tiên đi cúng theo sự cầu thỉnh của hàng tại gia cư sĩ. Đó là một lễ cúng nhà mới theo cách hiểu hôm nay. Theo kinh Trung Bộ trong thời gian đức Phật về quê hương thăm thân quyến, các vị hoàng thân Sakya nhân vừa làm xong một ngôi nhà lớn đã cầu thỉnh đức Phật quang lâm chứng minh, sử dụng lần đầu để “Các vị Sakya ở Kapilavatthu sẽ hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài. Thế tôn im lặng nhận lời.” (1)

Từ sự kiện này có thể thấy sự gia tâm chú nguyện như đức Phật cũng được xem như là một dạng thức của khoa nghi cúng kiếng. Trong một trường hợp khác, khi biết bệnh tình khó qua khỏi, đại thí chủ Anathapindika đã cho gia nhân đến cầu thỉnh riêng ngài Sariputta quang lâm tư gia. (2) Trước bệnh tình của thí chủ Anathapindika, tôn giả Sariputta đã có một bài thuyết giảng về giáo nghĩa vô thường và nhờ đó, cộng với thiện nghiệp đã gieo, thí chủ đã được sanh thiên sau khi bỏ thân tứ đại. Xem ra, việc cầu thỉnh chư tăng đến nhà thực hiện một số pháp thức nghi lễ khi người thân mất có liên hệ sâu xa đến trường hợp này. Không những thế ngay một kẻ sát nhân như Angulimala, sau khi xuất gia, vẫn có thể cầu nguyện cho người sản phụ bình an khi sinh nở. (3)

Từ đây có thể thấy, việc đi đến tư gia của người cư sĩ thực hiện các chú nguyện, nghi lễ nhằm đem đến sự bình yên cho họ đã xuất hiện ngay trong thời đức Phật, dẫu rằng hình thức thực hiện nghi lễ giản đơn, không phức tạp rườm rà về hình thức.

Tùy theo không gian và lịch sử phát triển, Phật giáo tại mỗi khu vực có những sắc thái về nghi lễ khác nhau trong việc thực hiện các nghi quy cúng kiếng tại nhà cư sĩ. Ở Việt Nam do sự ảnh hưởng, giao thoa của nhiều luồng văn hóa, do sự du nhập và đồng hành của các hệ Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền, việc đáp ứng các nhu cầu tâm linh mà ở đây gọi là đi cúng cho người cư sĩ, cũng hết sức phong phú và sinh động.

Những khó khăn và thuận lợi từ hiện thực đi cúng

Với một khảo sát chưa đầy đủ, chúng tôi cho rằng bất cứ người xuất gia nào cũng từng đi cúng hoặc có những liên hệ đến việc cúng kiếng. Thực tiễn cho thấy việc đi cúng xuất phát từ nhiều lý do: Vì lòng bi mẫn, vì mong mỏi hóa độ người, do mong cầu người cư sĩ ủng hộ các điều kiện tu tập, kiến lập đạo tràng và thậm chí do mong cầu được thỏa mãn những sở dục cá nhân … Trong những sắc thái muôn màu từ hiện thực đi cúng, việc đi cúng vì lòng bi mẫn, vì mong hóa độ người là những lý do chính đáng.

Mặc dù xuất phát từ lý do chính đáng và đúng pháp, nhưng trong thực tế, người xuất gia đã đối diện không ít khó khăn khi đi cúng tại tư gia cư sĩ. Trước hết, để đủ sức đáp ứng nhu cầu tâm linh cho người cư sĩ mà ở đây là việc đi cúng, người xuất gia cần phải có sức khỏe tốt. Vì trong thực tiễn đi cúng, đôi khi người xuất gia phải di chuyển qua lại những nơi giao thông trở ngại, và trong một số trường hợp còn gặp phải sự bất tiện về quy định thời gian. Bệnh tật, hao tổn sức lực và tâm lực trong khi đi cúng, là thực tế được ghi nhận từ hàng xuất gia trong khi thực hiện hạnh nguyện này.

Thêm nữa, có những người tại gia chưa bao giờ biết đến Phật pháp, nhưng khi gia đình có việc thì mong người xuất gia đáp ứng các nhu cầu tâm linh. Điều đó không có gì sai. Tuy nhiên do hạn chế về nhận thức nói chung và về Phật giáo nói riêng, do sự huân tập , đan xen các tập tục tín ngưỡng truyền thống, niềm tin gia đình… nên đã yêu cầu người xuất gia đáp ứng các nhu cầu tinh thần không phù hợp với pháp Phật. Cụ thể, đã có những trường hợp người cư sĩ yêu cầu bậc xuất gia thực hiện các nghi lễ theo khuôn mẫu Nho gia. Đã có những trường hợp đòi hỏi người xuất gia đáp ứng các yêu cầu của họ như là trách nhiệm bắt buộc. Có những trường hợp họ xem người xuất gia thực hiện các nghi lễ tâm linh cũng giống như bao công việc bình thường, và thậm chí không khác biệt mấy so với những nghề thấp nhất trong mức thang giá trị xã hội. Đây chỉ là vài trong số những lý do làm cho người xuất gia sơ tâm ái ngại, và đòi hỏi những người chuyên thực hiện việc đi cúng phải kiên tâm và vững chải, khi trải nghiệm các cung bậc ứng xử trong đời.

Về phương diện hoằng hóa, việc đi cúng là tiền đề thuận lợi trong việc thực thi sứ mạng hoằng pháp của người xuất gia. Vì thực tế có những người chưa bao giờ biết kính Phật trọng tăng nhưng khi gia đình hữu sự, họ sẵn lòng thực hiện mọi hướng dẫn của chư Tăng, miễn sao người thân của họ được an lành. Đây là dịp thuận lợi để hướng họ quy ngưỡng Phật pháp. Trước hết, nếu là việc vui như khánh thành nhà mới, hôn sự … thì sự chứng minh và tác thành của chư Tăng có tác dụng khuyến hóa người cư sĩ cần tăng tiến hơn nữa trong thiện sự của mình. Ngoài việc thực hiện các khoa nghi cần thiết thì một thời giảng ngắn về phương thức mưu sinh đúng pháp, sống làm sao cho hợp đạo làm người, là những đề tài thích hợp trong trường hợp này. Nếu đó là việc hệ trọng như hiếu sự, tang nghi thì sự hiện hữu của người xuất gia, ngoài chức năng gia tâm cầu nguyện, còn có ý nghĩa quan trọng là chia sẻ, động viên khuyến tấn hương linh đã khuất cũng như người hiện còn những giá trị Phật lý căn bản.

Người xuất gia nên xem việc hóa độ chúng sanh là trọng trách. Khi người tại gia thỉnh cầu với bất cứ lý do gì thì cũng nên xem đó là duyên khởi để hàng xuất gia thực hiện chí nguyện của mình. Họ cầu thỉnh, tức đã mở cửa, vấn đề là làm sao cho căn nhà đó bừng sáng trong ánh sáng Phật pháp, là trách vụ quan thiết của hàng xuất gia.

Với truyền thống văn hóa ảnh hưởng khá nhiều yếu tố Phật giáo, người Việt khi hữu sự, mà nghĩa cụ thể được hiểu ở đây là việc tang, thường đến chùa cầu thỉnh chư Tăng thực hiện pháp sự. Đây là điều kiện thuận lợi để chư Tăng mở rộng khả năng giáo hóa của mình. Phải xem đó là vùng đất tuy không mới nhưng cần bàn tay chăm sóc của người xuất gia, để giao hạt trí tuệ và từ tâm. Cụ thể hơn, đi cúng để hóa độ người chứ không nên xem đó là dịp để mong người tạ ơn.

Những giải pháp gợi mở khi xem đi cúng cũng là hoằng pháp

Thứ nhất, cần phải nuôi dưỡng thường xuyên ý thức xem việc đi cúng là pháp phương tiện để đưa Phật pháp vào đời. Phương tiện vận dụng như thế nào là hợp lẽ, đó là điều người xuất gia cần phải suy tư, thẩm sát. Mặt khác, giữa phương tiện và cứu cánh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể tùy tiện vận dụng phương tiện lai tạp các yếu tố phi Phật giáo mà đòi hỏi cứu cánh tối thắng, an lành. Ở đây, trong khi thực hiện pháp cúng kiến, thì đừng nhân danh phương tiện để biện minh cho những lễ nghi tiêu tốn quá nhiều tài lực, tâm lực và thời gian của người cư sĩ. Biện sự nghi lễ của Phật giáo về cơ bản bao giờ cũng phù hợp với phong văn hóa của từng vùng, miền, dân tộc và điều kiện cụ thể của người cư sĩ.

Thứ hai, không yêu cầu đáp trả, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì khi thực hiện nghi lễ cho người tại gia. Pháp phật là pháp thượng nhân, dùng pháp Phật để mong cầu sự thi ân đáp trả là điều không hợp lẽ. Có thể, do thói quen ứng xử văn hóa, người tại gia sẽ băn khoăn nếu như chư Tăng không chấp nhận sự tạ lễ sau khi một nghi lễ nào đó hoàn thành. Trong hoàn cảnh này, việc thọ nhận và chúc phúc cho hàng cư sĩ là việc cần làm. Tuy nhiên, đối với hàng tại gia thâm tín Tam bảo, thì cần phải trang bị cho họ ý thức phụng sự Tam bảo vượt thoát khỏi ý niệm đáp trả, đền ơn. Cúng dường trong tâm thế này được Phật tán thán, vì công đức luôn vượt lên trên mọi cúng phẩm bình thường khác.

Thứ ba, ngoài chư Tăng ra, trong một số bối cảnh, người Phật tử tại gia có thể góp phần thực hiện một số nghi lễ. Đó là một khóa tụng kinh, một thời hộ niệm, một sự bày biện đúng pháp cho một nghi lễ, đàn tràng. Sự phối hợp nhuần nguyễn giữa hàng xuất gia và Phật tử tại gia trong nghi quy cúng kiến là một minh chứng cho sự phát triển Phật giáo ở mọi thời kỳ. Với quỹ thời gian có hạn của một người xuất gia, với số lượng đông đảo cùng nhiều yêu cầu nghi lễ của cùng quần chúng tại gia, nếu như không có hàng Phật tử tại gia cùng gia tâm hỗ trợ trong một số nghi quy cần thiết, thì đôi khi người xuất gia không còn sức lực và thời gian để nghiên tầm kinh điển, để tự tu và chuyển hóa bản thân. Theo Phật, học Phật là để tự mình chuyển hóa, chứ không nên chỉ mong cầu nhỏ nhoi là được người xuất gia thực hiện tang lễ lúc cuối đời.

Thứ tư, căn cứ vào kinh điển, thì thời khắc trước khi lâm chung quan trọng gấp ngàn lần những nghi sự cúng kiến sau khi mất. (4) Cho nên việc hỗ trợ của hàng xuất gia cần tập trung vào thời khắc quan trọng này. Trong những hoàn cảnh bất khả, thì sự chia sẻ những kiến thức căn bản về giáo lý vô thường, quan điểm xả ly, không chấp thủ… là những trang bị cần thiết cho người hấp hối mà người tại gia có thể thay mặt hàng xuất gia góp phần thực hiện. Vì lẽ, trang bị tư lương Phật pháp, bất kể đó là thời điểm nào, không bị bó buộc trong giới hạn cư sĩ hay chư tăng.

Cuối cùng, cần phải hiểu rằng, cúng kiếng hay sự gia tâm chú nguyện là giải pháp không được Phật đánh giá cao. Hình ảnh nhận chìm hũ dầu xuống nước và đập vỡ nó ra, mảnh sành sẽ chìm xuống và dầu sẽ nổi lên dù được cầu nguyện bằng cách nào đi chăng nữa, là ẩn dụ sinh động về chuyện cúng kiếng được Phật dạy trong kinh Tương Ưng. (5) Cần nuôi dưỡng ý thức đó thường xuyên để có một cái nhìn thông thoáng hơn khi vận dụng nghi quy cúng kiến, phụng sự cho người.


1. Kinh Trung Bộ, kinh Hữu Học số 53.
2. Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc, số 143.
3. Kinh Trung Bộ, tập 2, kinh Angulimala, số 86.
4. Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Phagguna.
5. Kinh Tương Ưng, tập 4, Thiên sáu sứ, chương VIII, Tương ưng thôn trưởng, kinh Người đất phương tây hay người đã chết.

( Nguồn: NSGN số 198 )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2018(Xem: 6923)
Chưa bao giờ mà quyền lực mềm mang tên nhà bếp tại đa số các chùa lại lên ngôi đến vậy. Nó dần trở thành điểm đen nhạy cảm nhất tại các chùa khi Phật tử luôn được cảnh báo trước về những bất cập cho những ai đang có ý định phát tâm ở lại công phu, công quả lâu dài.
03/08/2018(Xem: 11622)
Tiệc Chay Văn Nghệ Gây Quỹ Xây Dựng Tu Viện Từ Ân, Victoria, Úc Châu (Thứ Sáu, 28-9-2018) tại Nhà Hàng Maxim Sàigòn, Springvale, Victoria, Australia
30/07/2018(Xem: 7167)
Hôm nay, chúng tôi hẹn nhau đi ăn cơm chay vì đang là ngày 14 âm lịch. Nhưng cuối cùng, chúng tôi không vào các nhà hàng bán đồ chay trong vùng hay đi đâu xa mà cùng mang đồ ăn, trái cây đến thăm một người anh em huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ đang lâm trọng bệnh: Huynh trưởng Quảng Quý Huỳnh Kim Lân (HKL). Tôi và anh Bạch Xuân Khỏe đến thăm anh Quảng Quý Huỳnh Kim Lân khi nghe tin bệnh tình anh đã đến giai đoạn cuối, khó lòng qua khỏi.
30/07/2018(Xem: 7561)
Trang Nghiêm Lễ Xuất Gia Của Đội Bóng Bị Mắc Kẹt Trong Hang Động Ở Thái Lan, Các chú bé vừa được cứu thoát khỏi hang động ở Thái Lan đầu tháng này, một sứ mệnh quốc tế thu hút cả thế giới đã xuất gia gieo duyên nhằm tưởng nhớ đến người thợ lặn tình nguyện đã chết trong thử thách đầy đau khổ giải cứu các chú.
30/07/2018(Xem: 8793)
Một vị cư sĩ hỏi vị Sư: - Bạch Thầy cho con hỏi vì sao có người tu thì an lạc, có người tu lại chẳng an lạc? Vị Sư không đáp mà thủng thẳng hỏi: Chẳng hay tâm của Đạo hữu đang an hay chẳng an? Cư sĩ: Bạch thầy tâm con vừa an, vừa bất an. Vị Sư: Cho tôi hỏi đôi điều, Đạo hữu nghĩ sao cứ thẳng thắn mà đáp. Khi nào Đạo hữu thấy an?
28/07/2018(Xem: 5774)
CHÙA NHỎ MIỀN QUÊ Tôi đứng lặng im trước bức thư pháp đề thơ lộng khung kính treo trên vách của ngôi điện im ắng. Thư pháp của chính Thầy trú trì. Thi phẩm bất hủ của Trương Kế, đã được truyền tụng nhiều đời, đưa tiếng chuông của một ngôi chùa ngân vọng giữa thinh không, rung động xuyên suốt cả không gian và thời gian, khiến cho nhân tâm đang lăng xăng phóng túng phải quay về với thinh thinh lắng đọng.
28/07/2018(Xem: 8890)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 7014)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10338)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7597)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]