Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trà Đạo

20/09/201512:30(Xem: 8307)
Trà Đạo

tra dao

TRÀ ĐẠO

Tạ Thị Ngọc Thảo


Núi là núi, sông là sông

Thiền là một chén trà nồng trên tay

Sau khi thực hành nghi thức thưởng trà với người Nhật, trong ngôi nhà Nhật, trên đất Nhật, khách đinh ninh rằng: Nền tảng xã hội và nhân cách con người Nhật Bản được xây dựng trên bốn nguyên tắc hòa-kính-thanh-tịch (wa-kei-sei-jaku), giá trị cốt lõi của trà đạo.

Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”.

Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.

 Tự thấy sự chuẩn bị quá kỳ công, khách thưa thốt:“Mỗi lần thưởng trà chúng ta đều thực hiện công đoạn này sao?”. Bà chủ tươi cười: “Hây, kính mình là kính người, kính  người là kính mình, thưa bà”. Câu trả lời của bà chủ,với khách, là bài học vỡ lòng trước khi trải nghiệm trà đạo.

Cùng dự thưởng trà ngắm trăng còn có ba người bạn của bà chủ, tất cả đều là thầy cô giáo, thường đến thưởng trà trong ngôi nhà này. Trà chủ và trà khách đều dung dị, uy nghi trong trang phục Yukata. Dù là bạn lâu năm, thế nhưng khi hai bên gặp nhau, tất cả đều đứng thẳng, đôi bàn tay khép chồng lên nhau rồi cúi đầu chào trang trọng. Khách lại thêm một bài học về chữ “Kính” trong giao tiếp.

Trăng vừa nhú lên khỏi bụi cây bà chủ mời trà khách rời ngôi nhà chính. Ngăn chia giữa nhà chính và khu vườn là một cái cổng nhỏ dựng bằng tre, không có vách. Con đường (roji) trong vườn được định hình bởi những phiến đá (nori-no-ishi) cao-thấp, lớn-nhỏ, tròn-méo, quanh co, bất chợt; khiến người bước phải tập trung, phải chánh niệm. Trong tâm trạng dõi theo bước chân của mình, vô tình, trà khách đã bỏ lại bụi trần bên ngoài cái cổng không vách. Trà khách tự hỏi: “Tại sao lại nhọc công dựng một cái cổng hững hờ không vách?”. Rồi tự trả lời: “Cái cổng không vách ấy là cánh cửa lòng ta, phiền não/an vui; hạnh phúc/bất hạnh; địa ngục/niết bàn,... đều từ đó đến, đi.”

Cây kiểng trong khu vườn cũng không tự nhiên mà xanh mướt chồi non, mà rễ dài chấm đất, mà xao xác lá vàng, mà khô héo tàn tạ. Cảnh vật ấy đang ngầm trao cho trà khách triết lý sanh, lão, bệnh, tử của muôn loài. Đã vậy, trong khu vườn lại có cái hồ. Đêm nay là rằm. Vầng trăng tròn vằng vặc vừa chễm chệ trên mặt nước hồ thu đã bị một cơn gió thổi qua, mặt nước xôn xao, trăng vỡ vụn; sự chễm chệ mới đó đã tan tành! Trà khách vỡ lẽ, không tự nhiên mà có buổi thưởng trà vào đêm trăng, gia chủ đã cố ý vay mượn vầng trăng để chuyển đến trà khách sự vô thường. Khi con người ta ngộ ra sự mong manh của cuộc sống thì, tham-sân-si và lòng kiêu hãnh nhẹ tợ mây trời.

Con đường đá quanh co trong khu vườn dẫn khách đến trà thất (chashitsu) nằm chơ vơ khuất dưới thân cây cổ thụ. Trước cái thất là một cái lu bằng đá (tsukubai) đặt gần sát mặt đất, bên trong chứa đầy nước trong veo. Như một nghi lễ quen thuộc, người trước kẻ sau khiêm cung quỳ xuống múc nước súc miệng, rửa tay- một cách làm sạch thân và tâm của mình trước khi thực hành trà đạo. Toàn bộ vật dụng cá nhân của trà khách đều phải gởi lại bên ngoài cửa trà thất, kể cả cái kiếm (nếu có) - vật bất ly thân của samurai! Quan sát những việc làm đó, khách nghiệm ra rằng: Khi không còn vật ngoài thân, không vướng sở hữu, con người ta tinh khôi như trẻ mới lọt lòng.

Trà thất rộng khoảng 8m2, được dựng lên bởi tranh, tre, nứa, lá; hòa hợp với cảnh sắc thiên nhiên. Điểm tô cho ngôi nhà là những cây đèn gốm đặt ẩn vào cây, vào vách; tạo ra vầng ánh sáng ấm cúng, trang nghiêm. Cái cửa vào trà thất được gia chủ cố ý làm thật thấp, trà khách phải khom lưng mới vào được bên trong. Động tác này, một lần nữa, giúp trà khách vứt bỏ cái tôi (và cái của tôi) để thân tâm được rỗng lặng hoàn toàn. Bên trong trà thất trên vách có một bức thư họa chữ “vô”, một bình hoa và một lư đất đang tỏa hương trầm. Trà khách trang trọng quỳ xuống cúi đầu sát chiếu trước chữ “vô”. Cảnh và vật nơi này đã gieo vào lòng trà khách sự cô tịch, thanh khiết. Phải chăng chén trà là con đò đưa khách về bến hòa-kính-thanh-tịch?

Gia chủ mời trà khách quỳ xuống chiếu, rồi cả chủ và khách đều đặt hai tay sát chiếu cúi đầu chào nhau. Nghi lễ trà đạo đầu tiên là tĩnh tâm theo tư thế thiền Nhật Bản. Tiếng gió vi vu, tiếng lá xào xạc, tiếng côn trùng rỉ rả, quyện với mùi hương trầm huyền hoặc khiến trà thất tôn nghiêm, khiến lòng người siêu thoát.

Gia chủ bắt đầu bày bộ trà cụ phục vụ khách thưởng trà, rồi ân cần đặt trước mặt khách đĩa bánh ngọt (wagashi) có hình thức xinh đẹp và màu sắc tươi thắm. Khi trao và nhận đĩa bánh, chủ và khách lại cúi chào nhau. Tiếp theo gia chủ đổ nước nóng vào trà cụ, vào chén uống trà (chawan) tráng ba vòng, rồi dùng khăn (chakin) lau khô. Khi bắt tay pha trà, gia chủ nghiêng đầu mời khách thưởng bánh. Gia chủ lấy thẻ tre (chashaku) múc bột trà xanh (matcha) từ hộp đựng trà (natsume) thả vào cái chén rồi cẩn thận giằm nhuyễn bột trà. Thể hiện tính tiết kiệm cố hữu của người Nhật bà đã khỏ nhẹ cái thẻ tre trên vành chén để bột trà không rớt ra ngoài rồi cầm cái gáo tre (hishaku) múc nước nóng trong ấm đổ vào chén chè xanh. Gia chủ dùng một dụng cụ bằng tre (chasen) - có hình dáng giống trái cầu lông- đánh trà theo chữ 川 (kawa) từ trên xuống, xong đánh nhanh tay cho đến khi chén trà dậy bọt, càng dậy bọt càng ngon. Quy trình đánh trà kết thúc bằng chữ の (no) - ký tự trong bộ chữ Hiragana. Khi gia chủ pha trà, khách cảm nhận được sự chánh định của từng thao tác trên đôi tay và sự an lạc trên sắc diện.

Cầm chén trà vừa hoàn thiện bằng hai tay, gia chủ xoay ba vòng và dừng lại khi phần đẹp nhất của chén trà hướng về phía khách. Trà khách cũng đón nhận chén trà bằng hai tay  xoay ba vòng để phần đẹp nhất xoay lại về gia chủ rồi, nâng chén trà lên ngang mày vái nhẹ. Sau khi miếng bánh ngọt cuối cùng vừa trôi trong miệng, khách nhận chén trà từ tay gia chủ uống liền ba hớp, hết chén trà. Khách tỉnh lặng thưởng thức vị đắng của trà hòa quyện vào vị ngọt của bánh vừa tan trong miệng, thật lâu, thật lâu. Cuối cùng trà khách dùng khăn tay của mình lau nhẹ vệt trà xanh in trên vành chén rồi trao chén trả về gia chủ; cả hai lại cúi đầu chào nhau. Khi khách thưởng trà, gia chủ nhận biết khách đang chánh niệm, đang sống trọn vẹn với chén trà tại đây và giờ phút này.

Để buổi thưởng trà được thăng hoa, gia chủ mời khách bàn luận một đề tài đã cùng nhau định trước. Chủ đề của buổi trà đạo hôm nay bàn về bốn chữ “nhất kỳ, nhất hội” (ichigo ichie), tạm diễn ý: “Cuộc gặp gỡ hôm nay, là cơ hội duy nhất của đời mình”. Và rằng, thế giới này nhỏ lắm, xoay người lại bạn không ngờ rồi mình sẽ gặp ai. Nhưng thế giới này cũng rất lớn, xoay lưng đi là sẽ chẳng còn gặp lại. “Nhất kỳ, nhất hội” còn ẩn chứa nghĩa rộng lớn của Thiền tông: Khó khăn lắm ta mới được làm người, hãy chuyên cần tu dưỡng để trở thành người cao quý, bậc giác ngộ.

...

Việt Nam là đất nước có nhiều cây Chè và người uống trà; Thừa Thiên Huế cũng vậy. Cảnh quan Thừa Thiên Huế đẹp như một bức tranh phong thủy hữu tình. Hơn nữa, Thừa Thiên Huế có nhiều mỏ đá, nhiều tranh, tre, nứa, lá và những con người khéo tay; điều kiện cần và đủ để thực hành nghi thức trà đạo. Hãy dành vài m2 trong khuôn viên vườn nhà dựng lên một trà thất. Một bộ trà cụ mộc mạc, một bức thư pháp, một chậu bonsai nhỏ, một cái lư xông trầm, vài thanh củi khô và một nắm chè xanh là người dân Thừa Thiên Huế đã có một sản phẩm du lịch thanh cao, độc đáo. Vừa mời gọi khách phương xa, vừa chiêu đãi bạn hiền. Nhưng, để đạt được triết lý của “đạo” trong thưởng trà thì, trước hết, gia chủ phải thực hành thường xuyên hòa-kính-thanh-tịch với mình, với gia đình và với những người chung quanh.

Là một vùng đất cố đô thấm đẫm tố chất văn hóa cung đình. Là con người của kinh đô Phật giáo tiềm tàng tánh thiện sẵn có, nếu Thừa Thiên Huế không khởi xướng hòa-kính-thanh-tịch để vun đắp và duy trì đạo đức xã hội cho mình và cho người thì vùng đất nào ở Việt Nam có thể bắt đầu?

Trà đạo Thừa Thiên Huế, tại sao không?

 

----------------------

Bài đã đăng báo Thừa Thiên Huế tháng 9/2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5205)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5626)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4491)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5082)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4643)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5337)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4827)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9541)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4925)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4156)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]