Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy nghĩ về việc tu tập và hoằng pháp lợi sinh

05/06/201319:23(Xem: 8074)
Suy nghĩ về việc tu tập và hoằng pháp lợi sinh

phat thich ca


Nhng điu cn suy nghĩ

để định hướng cho việc Tu tập và hoằng pháp lợi sanh

_ Như chúng ta biết, theo Thiền tông, khi gần nhập Niết Bàn, Đức Phật truyền y bát cho Tôn giả Đại Ca Diếp người chuyên tu hạnh đầu đà. Có phải chăng qua việc này, Đức Phật muốn khẳng định rằng, việc tiếp nối Đạo Giác ngộ, Giải thoát của Ngài, thì phải có tu và là người thực chứng, chứ không chỉ có tài trí mà nối truyền được.

_ Tại sao Ngài A Nan là đại đệ tử thuộc hàng Đa văn đệ nhất, ghi nhớ tất cả những lời của Đức Phật dạy trong 49 năm thuyết pháp, nhưng lúc đầu,không được dự vào hàng ngũ những vị đại biểu của đại hội kiết tập kinh điển lần thứ nhất ?

Có phải chăng vì quá thông minh, với trí tuệ siêu tuyệt, và là em được làm thị giả, hầu cận Đức Phật, nên thị hiện việc sinh tâm ỷ lại, dễ duôi, không nỗ lực tu tập, nên lúc đầu không chứng được A La Hán và dự phần vào kiết tập kinh điển lần thứ nhất để làm gương mà dạy cho những người cầu Phật đạo sau này!

_ Sau khi Thiền tông truyền sang đông độ, đến đời thứ năm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có số chúng đông trên 500 vị trong đó có thiền sư Thần Tú là người tinh thông Thiền giáo, làm thầy giáo thọ cho đại chúng mà Ngũ Tổ không truyền y bát cho, đợi đến khi Ngài Huệ Năng, một người không biết chữ, đến mới bày ra việc viết kệ trình và cuối cùng truyền y bát lại cho Ngài làm tổ sư đời thứ sáu. Qua sự kiện này cũng như qua nội dung bài kệ của Thiền Sư Thần Tú:

Thân thị bồ đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời cần phất thức

Vật sử nhạ trần ai

Và bài:

Bồ đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai

Của Lục Tổ Huệ Năng, chúng ta có thể thấy được sự chứng ngộ chân như thật tánh và sự liễu giải trên ngôn từ cách xa nhau như trời vực. Nói như thế không phải chúng ta hoàn toàn phủ nhận ích lợi của sự học tập kinh điển, nhưng ở đây chúng ta phải thấy rằng vấn đề học đạo phải luôn luôn đi đôi với sự hành đạo. Có hành đạo chúng ta mới trải nghiệm thực tế. Ngược lại, chúng ta chỉ lý thuyết suông thì chẳng được ích lợi gì. Một ông bác sĩ mới ra trường chưa trải nghiệm tay nghề không bằng một cán sự y tế lâu năm! Đó là sự thật.

_ Tại sao các nước Phật giáo Nam truyền, thì hầu hết Đạo Phật là quốc giáo và tồn tại cho đến bây giờ, còn các nước Phật giáo Bắc truyền, thì có khi phát triển mạnh, nhưng cũng có lúc bị tiêu diệt gần hết, hoặc phải bị mai một ?

Có phải chăng những ai, y theo kinh Di giáo mà Tu, giữ đúng giới luật và thực hành theo đúng hạnh của đức Phật (trì bình khất thực, sống xả ly, tịch tịnh...) thì sẽ mãi mãi được trường tồn và lợi lạc quần sanh. Còn quá tùy duyên, phương tiện, hướng ngoại tìm cầu thì sẽ dễ bị từ từ xa lìa chánh pháp và rồi sẽ dễ bị diệt vong hay thành ma sự.

Qua những sự kiện trên, chắc mỗi người con Phật chúng ta đã thấy rõ được việc hành trì tu chứng, là quan trọng nhất. Không ai mà chẳng biết Lục tổ Huệ Năng ít chữ, không đọc kinh được. Ấy vậy mà Ngài đã khơi nguồn tuệ giác cho dòng Thiền Tào Khê tuôn chảy rạng ngời khắp chốn, và tiếp nối đến tận ngày nay. Phải chăng hiện tượng “mù chữ” chỉ để khẳng định một điều chữ nghĩa chẳng qua là phương tiện ban đầu nhập đạo. Hành giả cần phải buông bỏ chữ nghĩa, bằng cấp và tri thức ( sở tri chướng ) mới mong đạt đến sự chứng ngộ tự tánh, có như vậy mới đạt được cứu cánh giải thoát và mới có đủ đạo lực, năng lực để thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp, lợi sanh. Biết rằng "tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đảy sách", nhưng học là để trạch pháp mà tu cho đúng lời Phật dạy, hầu trở về với chân như, rồi mới tiến đến độ sanh thì mới vững vàng, và điều đặc biệt cho chúng ta chú ý nhất, theo thiển ý cá nhân tôi, chúng ta phải luôn nhớ: “Nhơn Giới sanh Định nhơn Định phát Tuệ”, thì Tuệ của ‘Vô sư trí’ đó, mới chính là sự nghiệp của người tu, chứ không phải qua học vị, hoặc mảnh bằng Cử nhân, Tiến sĩ, hay sự vay mượn, nơi ‘trí hữu sư’ mà cho đó là Tuệ!

Mỗi một người con Phật, những người đang đi trên con đường Giác ngộ, chúng ta hãy luôn ghi nhớ: “ Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” và thường tâm niệm rằng: “khi chưa chứng A La Hán, thì chưa thể tin tâm mình được”. Nếu chưa biết lội, mà vội nhảy xuống nước để cứu người, thì coi chừng không cứu được người, mà có khi mình bị chết đuối. Nếu chưa có của, mà muốn cho, thì lấy gì mà cho. Nếu ý nguyện độ sanh quá cao, trong khi chưa đủ đạo lực để cảm hoá người khác, mà vội xuống núi, để cứu nhân độ thế, thì ‘cửa tùng đôi cánh gài’ sẽ khiến cho ta, không vào được cửa đạo và dễ bị chìm đắm trong sự níu kéo của ngũdục trngian.

Thích Viên Thành (Hạnh Trung)

----o0o---
Vi tính: Thanh Phi - Thanh Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5222)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8011)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6151)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5631)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4267)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9187)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]