Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi nét về Thầy Trụ Trì

05/06/201319:04(Xem: 16572)
Đôi nét về Thầy Trụ Trì

Kỷ Yếu
Kính Mừng Chu Niên
Hai Mươi Năm (1990-2010)
Thành Lập Tu Viện Quảng Đức

flowerba


06.tttamphuong-2

Đôi nét về Thầy Trụ Trì

Tôi vẫn thích thú và nhớ mãi cái thuở mới chân ướt chân ráo vào Chùa sinh hoạt, nhận lãnh công việc “gõ đầu trẻ” cho đám học sinh trường Việt ngữ Bồ Đề của Tu Viện Quảng Đức do Thầy Tâm Phương thành lập. Để rồi từ đó, tôi đã trở thành một người đệ tử, một người con, người cháu, người chị, người em trong mái ấm đại gia đình Quảng Đức. Và rồi ngày theo ngày, tháng theo tháng nối tiếp nhau tôi lần lượt phát hiện ra những nét son, điểm xuyến về chân dung của Thầy Trụ trì Tu viện Quảng Đức mà ít ai tiếp xúc và nhìn qua Thầy mà có thể thấu được!

Nói không ngoa chút mô hết, ngày tôi đưa em tôi cùng vào Chùa làm công quả, tôi đoán chắc Thầy lúc nớ trong bụng cũng mừng thầm vì nghĩ mấy đứa ni do Cô Huệ Khiết dẫn vô Chùa và là “mấy O xứ Huế” thế nào công dung ngôn hạnh không giỏi lắm thì ít nhiều chi cũng đối đối! Ai dè thiệt tội cho Thầy, ngoài việc phát hiện ra mấy đứa hắn không biết mô tê chi hết chỉ trừ việc dạy học mà Thầy còn cứ phải thường nhẹ nhàng nhắc nhở (bị vì nếu nặng nề nhắc nhở mà căn cơ mấy đứa hắn còn thấp rồi mấy đứa hắn bỏ trốn thì làm răng), uốn nắn chúng tôi y chang mấy Mệ xưa rứa đó: “Con, đừng chạy con, đi từ từ thôi coi chừng té”, “Nói nhỏ nhỏ thôi con, lớn tiếng quá”, “Làm nhè nhẹ thôi” và … Thầy áp dụng đúng nghĩa “dạy đệ tử từ thuở mới vô sân Chùa”! Đến nổi đứa con gái đầu lòng của tôi sau khi làm việc với Thầy cũng bảo rằng “Mẹ ơi Thầy Tâm Phương thích cái gì cũng từ từ và nhẹ nhàng hết đó Mẹ”. Tôi phải cười tán đồng trước mặt con tôi nhưng trong bụng thì ấm ức không kém vì Thầy quên đi ở cái xứ sở ni thì giờ đúng nghĩa là tiền bạc cho nên mọi người cứ hễ buông cây chầm là cầm cây chèo liền, làm chi cũng phải ba chân bốn cẳng mới kịp việc chứ mà cứ “Dung” theo kiểu mấy người xưa thì chỉ có dung dăng dung dẻ thôi chứ làm răng mà theo công kịp việc với người ta đây phải không bạch Thầy?

Thầy làm tôi nhớ đến Thầy Bổn sư tôi khi không hài lòng lúc chúng tôi thỉnh cầu chi thì Thầy hơi chau mày và cứ: “răng???” hay “rứa à???” nhưng giọng Thầy tôi lên xuống, luyến láy hết 3, 4 nốt nhạc mới xong từ ngữ ấy. Những lúc như rứa là tự tụi tôi phải tự động hiểu ý Thầy mình rồi lo mà xì-tốp đài phát thanh thao thao bất tuyệt và ý định đó đi. Đằng ni khi tôi mới vào Chùa một bữa nọ, Thầy dạy tôi làm điều chi đó nhưng tôi có ý kiến khác thì Thầy chỉ trả lời gọn lỏn “tùy ý con” nhưng với sắc mặt thật bình thường, giọng nói cũng chẳng đổi tông làm tôi đây cứ ngỡ là Thầy bằng lòng rồi và cứ rứa mà vô tư làm theo ý mình nhưng có ai ngờ sau ni mới được các Dì, các Chị cho hay Thầy đã không bằng lòng và “hờn mát” rồi đó! Mô Phật khi nớ tôi mới té ngữa, thì ra là rứa, hèn chi thấy Thầy không vui…… Sau lần nớ tôi đã rút kinh nghiệm nên luôn quan sát Thầy một cách cẩn thận từ giọng nói, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt…. nói chung là tôi tập trung cao độ để đoán biết là Thầy có hài lòng hay không? Và tôi hay nói đùa với mọi người là khi vào Chùa công quả lâu năm tự nhiên ai cũng trở thành người đa tài “đa nghề” lúc mô không hay hết. Này hí, trước hết là phải trở thành một “nhà tâm lý học” bị vì phải nghiên cứu để hiểu ý Thầy mà làm cho đúng; phải là nhà “chiêm tinh gia” bị vì phải đoán trước coi Thầy sắp lên kế hoạch chi cho những buổi lễ sắp tới mà có sự chuẩn bị; “nhà nội trợ”, “nhà văn”, “nhà thơ”, “nhà xây dựng”, ……… thậm chí cả “nhà lao công” nữa đó, bị vì nhìn thấy Thầy, với sức khỏe không tốt mà lại hom hem đi rửa từng toilet, buồng tắm ….. trong Chùa mà là chúng đệ tử thì làm răng đành đoạn không nghêu ngao cùng Thầy hát bài “người tu quét chùa, dọn dẹp khắp nơi” đây! Và cứ rứa, cứ rứa mà tự mỗi Phật tử trong Chùa khi làm việc cùng Thầy từ từ được hoàn thiện ngày mỗi ngày theo thời gian…..

Nói thiệt, dân xứ Huế tôi có một chứng bệnh là đa phần đều hay nhập đề theo kiểu vòng vo, quanh co khúc khuỷu như địa hình xứ sở ấy rứa, đưa người nghe đi tham quan sông Hương núi Ngự, cầu Tràng Tiền…. cho đã rồi mới vô trực tiếp vấn đề nhưng khi vào Chùa Quảng Đức tôi lại thú vị khi phát hiện thì ra Thầy Trụ Trì cũng y chang rứa nghe. Có lẽ Thầy ngại ngùng vì chúng tôi còn lạ nước lạ cái nên khi mô Thầy cũng cho tụi tôi đi lòng vòng chóng cả mặt, tối tăm mặt mũi khi nớ Thầy mới nói tới phần trọng tâm của vấn đề và cứ mỗi lần như rứa là tụi tôi chỉ bấm bụng cười thầm mà chuẩn bị tinh thần vì không biết ngày ni Thầy sẽ ban cho việc làm mới chi đây hay được nhận một vài lời đạo từ “bị rầy” hoặc “góp ý” vấn đề chi đó không biết nữa??? Mãi về sau, khi Thầy trò thân tình rồi Thầy mới thôi.

Nhưng đặc biệt nhất là có mấy ai lên Chùa làm Công quả mà “bị đuổi” về chưa hè? Thường tình thì Thầy trụ trì mô cũng mong mỏi chúng Phật tử ở lại Chùa phụ thêm cho ra việc rứa mà chị em tôi đây chứng kiến rõ ràng “nói có sách mách có chứng” à nghe là bị Thầy “mời về” thường xuyên. Ngày mô mà Chị em tôi lên Chùa tới trưa về thì thôi chứ hôm mô mà ở lại phụ cuốn chả giò với Dì Bảy, Chị Kim và mấy Dì, Chị khác, hay phụ Cô Hạnh Nguyên, Chị Thanh Phi nấu nướng…… thì cứ như mình đã set alarm sẵn rứa đó, tới khoảng 3-4 giờ chiều thì bóng Thầy xuất hiện và kèm theo câu: “Thôi về, về được rồi” hay “QH-QT tới giờ về rồi, về lo cơm nước, lo con cái…..” thế là ai cũng cười vì tụi tôi được Thầy chiếu cố mời về sớm nhất. Thật ra vì Thầy coi chúng tôi như con cháu trong gia đình, lo tụi tôi cứ ham ngồi đó mê mải bòn phước cho đủ sở hụi, mà đợi bòn cho đủ thì có nước đám con nheo nhóc ở nhà bị “treo bao tử” thôi. Tụi tôi có thưa, tụi con lo hết ở nhà rồi mới lên Chùa mà Thầy làm như cứ bán tín bán nghi hay răng cho đến mãi sau ni Thầy có dịp đến nhà chúng tôi thăm, tận mắt nhìn thấy nề nếp sinh hoạt trong gia đình rồi khi nớ mới yên tâm để yên cho chị em tôi làm công quả. Tôi kể chuyện “khó tin nhưng có thiệt ” ni cho Chồng, con tôi nghe khiến cả nhà ai cũng cười!

Điều mà Thầy vẫn làm cho tôi thật cảm động là luôn luôn mang trong mình một suy nghĩ “tự ti” cứ cho rằng mình thuyết pháp không hay, không giỏi như những vị khác và rất ngại ngùng giảng Pháp nhiều trước Phật tử nhưng Thầy mô có biết rằng có những lúc chúng ta nghe cả một buổi pháp nhiều tiếng đồng hồ để rồi chẳng vun đắp thêm cho bản thân một chút tư lương chi trong hành trang tu học của mình cả. Trái lại, Thầy giảng rất ít ỏi, vài ba chữ, dăm ba câu nhưng lời ý của Thầy thật thâm thúy, sâu sắc mà đã bao lần khiến tôi đây chột dạ, hổ thẹn với lòng vì Thầy đã nói trúng ngay chóc “tim đen” của mình hay Thầy như đang đi guốc trong bụng mình rứa đó và bản thân cứ nhớ mãi câu nói “bất tử” đó để tự động lo tu sửa cho “tim đỏ” trở lại không thôi thì làm răng mà sống đây phải không bạch Thầy???

Tôi có được cơ may là sống trong Chùa ở Huế nhiều lần, dăm ba ngày, một tuần, nửa tháng, cả tháng….. cho nên tôi ít nhiều chi cũng có chút am hiểu về nếp sinh hoạt của quý Điệu, Chú, Thầy….. từ nửa đêm canh ba cho tới giờ đi ngủ…… Hồi còn là Điệu hay một Chú Tiểu thì ai cũng phải trải qua giai đoạn học nấu ăn, lo bếp núc cho nên chuyện nấu nướng là lẽ thường tình nhưng khi đã là một Đại Đức trở lên thì hiếm khi còn vô bếp lắm. Nhưng phải nhìn nhận quý Thầy, Cô ở xứ Úc này rất tội, mọi công việc từ đầu chí cuối, từ bên trong ra tới bên ngoài hầu như phải trực tiếp kham hết vì thật sự Phật tử chỉ đến Chùa làm công quả cuối tuần hay những lúc có lễ lộc chi thôi. Nhưng Thầy đây đã là một vị Thượng Tọa Trụ Trì nhưng chẳng nề hà xuống bếp nấu ăn, dạy cho chúng tôi nấu nướng, cách thức làm thức ăn thậm chí còn nấu bát canh, miếng cơm cho hàng Phật tử chúng tôi ăn nữa….. Tôi cứ nhớ mãi miếng canh bí đỏ của Thầy, nói không nịnh mô nghe mà phải thú thiệt là Thầy nấu ăn ngon hơn tôi từng nghe đồn và tưởng tượng, tôi chưa hề được húp một chén canh bí đỏ mô mà thanh tao như rứa!

Ngoài là một người thích và biết thưởng thức âm nhạc, Thầy còn có một giọng ca truyền cảm không thua ai mô nhưng cứ hễ bước lên sân khấu sau khi phát biểu xong, Thầy muốn hát tặng cho các Phật tử một bài là mười lần như một cứ “Mẹ, mẹ là dòng suối ngọt ngào….” hoặc “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào….” Hát được chừng khoảng dăm ba câu là nghẹn ngào muốn khóc và tự động stop automatically. Tôi nghĩ mấy ông tác giả những bài hát ni mà thường ngồi thưởng thức nghe Thầy hát, chắc có ngày bị đau tim vì đợi hoài đợi mãi không biết đợi tới lúc mô Thầy mới chuyển tải tới khán thính giả trọn vẹn hết cả bài đây? Thôi thì hãy để “ngày ấy lụi tàn” đi hí? Và rồi tôi phát hiện ra Thầy tuy với gương mặt lành lạnh của xứ sương mù và dáng vẻ nghiêm nghị rứa đó nhưng con người Thầy rất giàu tình cảm, thường hay quan tâm, chia sẻ với từng người Phật tử nhất là vô cùng “ướt át” với Mẹ già ở quê nhà. Và cho dù Chùa có đang trong hoàn cảnh túng thiếu đi nữa, tôi không biết lúc nớ Thầy có thắt lưng buộc bụng Thầy không nhưng điều rõ như ban ngày mà ai ai cũng thấy là Thầy khi mô cũng rất chu đáo, ân cần lo từng bữa ăn, chỗ ở…. cho quý Ôn, quý Thầy, quý Cô thậm chí cả hàng Phật tử có dịp tới Chùa tu học, dự lễ hay thăm viếng.

Thầy thường hay nói với chúng tôi “Thánh nhân còn có khi nhầm, ngựa bốn chân còn vấp;” mà Thầy cũng là người bằng xương bằng thịt cho nên cũng không làm chi mà không có khiếm khuyết nhưng điểm nổi bật là hình như Thầy có bà con dòng họ, dây mơ rễ má chi với Ông “Trương Phi” bên Tàu hay răng mà khi tôi vào Chùa là được mọi người kể rất nhiều huyền thoại về đức tính nóng đến toát mồ hôi hột ni của Thầy, rồi dặn dò phải cẩn thận khi Thầy đang làm việc mệt nhọc, lúc nớ phải lo chào Thầy từ xa rồi hô biến liền chứ cứ đứng xớ rớ ở đó thì chút xíu nữa “nước mắt đầm đìa” thì đừng có than à nghe. Có lẽ trăm nghe không bằng một thấy, để rồi một hôm khi bất ngờ tôi thấy Thầy bình thường im lìm không nói nhưng khi lên cơn nóng khiến bản thân tôi cũng thất kinh hồn vía; còn các đệ tử khác thì lật đật hớt ha hớt hãi lo chạy đi nấu nướng thêm gấp bị vì thiếu thức ăn dọn cho khách đến tham quan Chùa…… Nhưng tôi hiểu nguyên nhân Thầy lên cơn nóng suy cho cùng cũng với mục đích là muốn công việc Phật sự được hoàn hảo hơn mà thôi. Nhưng điều mà tôi nhận chân được ở Thầy là một vị Thầy thật đáng thương kính là bởi vì sau khi la rầy đám đệ tử của mình thì người buồn nhiều hơn, trăn trở nhiều hơn, bức rức hơn lại chính là Thầy cho dù là điều la rầy ấy là đúng, là muốn đệ tử của mình làm việc hoàn hảo hơn, chu đáo hơn, cẩn thận hơn hay cho dù điều la rầy đó có hơi oan cho đệ tử mình……. Để rồi sau khi cơn nóng, Thầy luôn tìm đến chúng đệ tử để an ủi và nói lên lời xin lỗi với chúng đệ tử, đó là điều mà rất khó có ở một vị Thầy. Ai cũng thường biện bạch, chống chế cho những cơn thịnh nộ của mình nhưng dễ mấy ai có lỗi mà biết nhận lỗi nhất là một khi mình đang ở một vị trí như Thầy?

Chúng đệ tử trong Chùa khi nói tới Thầy là luôn luôn nhớ tới cụm từ “giỏi con, giỏi con” nghìn năm vẫn một của Thầy trả lời khi gặp đám Đệ tử chúng tôi chào Thầy. Đến nổi khiến cho Dì Nguyên Như, trưởng tử của Thầy ở gần Thầy riết rồi cũng nhập tâm luôn, cho nên khi Dì nhờ chúng tôi làm điều chi Dì cũng mở miệng khen y chang Thầy rứa đó khiến chúng tôi phì cười, đúng là “gần đèn hèn chi mà sáng”, và cũng có lẽ nhờ lời khen ngồ ngộ đó mà chúng đệ tử làm việc không biết mệt và phải ráng cố gắng làm cho giỏi thiệt để khỏi thẹn lòng khi nhận lời khen đó từ Thầy.

Có lẽ điều mà ai ai cũng phải nhìn nhận là khi Thầy tổ chức một lễ lộc, một công việc Phật sự chi thì cho dù khó khăn mấy rồi cũng xuôi xuồng mát mái, mọi việc đều trôi chảy và hoàn tất một cách tốt đẹp nhất mà toàn thể đại gia đình Quảng Đức có thể có được. Chính chú Long Quân, chủ nhiệm báo Nhân Quyền cũng bảo với chúng tôi là vì nhờ Thầy trụ trì có cái “tâm” cho nên mọi chuyện đều có Chư Phật phù hộ độ trì cho hoàn thành tốt đẹp. Thật sự điều đó có lẽ đúng như tên pháp danh “Tâm Phương” của Thầy vậy!

Tất cả, tất cả…… những điều hiện hữu ở Thầy trụ trì khiến cho các đệ tử của Thầy mặc dù đôi lúc vừa làm vừa nước mắt ngắn, nước mắt dài….. nhưng luôn ngồi lắng lòng để rồi càng ngày càng thương kính Thầy nhiều hơn, hiểu Thầy nhiều hơn nữa …… Tôi biết chắc trong tâm khảm mỗi đệ tử của Thầy đều đã có câu trả lời xác đáng cho nên ròng rã 20 năm, một phần ba đời người trôi qua rồi mà các Bác, các Dì, các Anh chị em trong Chùa vẫn một lòng một dạ gắn bó cùng Thầy, hỗ trợ Thầy trong mọi công việc Phật sự rất miệt mài. Tất cả chẳng hề quản ngại khó khăn từ vật chất cho đến công sức để cùng Thầy trên vạn nẻo đường vất vả, gian truân hình thành một ngôi Chùa, một Tăng Xá, một Bảo Tháp Tứ Ân, trong mọi công việc từ thiện hay các công việc Phật sự khác nữa.

Để mô tả cho trọn vẹn bức tranh về Thầy trụ trì thì với một đệ tử mới vào Chùa như con đây thì chịu thua nhưng con cũng hy vọng là qua đôi dòng mộc mạc này, những điều mà con cảm nhận được trong những ngày tháng đến Chùa lạy Phật, tu học và làm công quả, sẽ giúp mọi người hiểu thêm về những phẩm hạnh cao quý của một vị Tỳ Kheo, vị Trưởng Tử của Như Lai, một vị khai sơn Tu Viện Quảng Đức tại thành phổ Melbourne, nơi mà hàng đệ tử chúng con đang nương tựa tu học.

Melbourne, Mùa An Cư Kiết Đông 2010

Quảng Hương

----o0o---
Vi tính: Thanh Phi - Thanh Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 9655)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 15590)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 11509)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 60095)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 7524)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 8714)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 13129)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 7989)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 8171)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 10598)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]