Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương II: Nhân duyên hội ngội với Bhutan

23/05/201319:41(Xem: 7962)
Chương II: Nhân duyên hội ngội với Bhutan


Bhutan có gì lạ?

Thích Như Điển

◄♣►

Chương II. Nhân duyên hội ngộ với Bhutan

"Tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh và tất cả các pháp đều do nhân duyên diệt" là đúng. Đó là chân lý ngàn đời của vạn pháp mà chư Phật trong quá khứ đã dạy. Chư Phật trong hiện tại đang dạy và chư Phật trong vị lai cũng chỉ dạy như thế mà thôi.

Năm 2000 là năm bận rộn của Hội Chợ Thế Giới tại thành phố Hannover, ai cũng biết như thế cả, mà cả thành phố như sống dậy vươn lên để sánh vai cùng thế giới; nên ở đây cái gì cũng chạy đua cả. Chạy đua với thời gian và chạy đua với mọi hoàn cảnh; không những trong năm 2000 mà trước đó một hai năm người dân của Hannover cũng đang có tâm trạng ấy. Đâu... vào giữa năm 1999 có một người Bhutan đến chùa và tự giới thiệu là Kunzang Thinley; người đứng đầu Viện Bảo Tàng tại Thimphu, thủ đô của Bhutan, muốn gặp tôi để trình bày một số vấn đề nhân EXPO năm 2000 tại Hannover. Hôm đó có Frank Sanzenbacher tức là Thầy Hạnh Hảo, người Đức. Ông ta nói tiếng Anh rất trôi chảy, mặc dầu ông ta cũng nói được tiếng Đức. Ông ta trình bày rằng: Để hoàn thành một tòa nhà của Bhutan tại khu triển lãm EXPO Hannover trong năm 2000 thì chính phủ phải gởi sang Đức 20 người thợ và chỉ dựng ngôi nhà nầy cũng như trang trí bên trong phải cần 6 tháng như thế, mà nơi ăn chốn ở lại chẳng có. Do vậy, ông ta có ý nhờ chùa Viên Giác giúp dùm. Vì đường đi từ chùa đến khu triển lãm chỉ cần 10 phút đi bộ là đến. Dĩ nhiên là tôi rất vui mừng. Vì biết rằng Bhutan không giàu có mấy, vả lại là một quốc gia Phật Giáo tại Á Châu rất ít người biết đến, ngay cả tôi. Do vậy mà tôi đã đồng ý không điều kiện là cứ tự nhiên đến ở và ngay cả ăn uống, tắm giặt suốt trong thời gian xây dựng ấy và chùa Viên Giác sẽ không lấy một lệ phí nào cả. Dĩ nhiên là ông ta rất vui mừng.

Qua trao đổi, tôi thường hay nhấn mạnh rằng: Tuy Phật Giáo của quý quốc có khác về lễ nghi và truyền thống với Phật Giáo Việt Nam; nhưng trong thâm tâm tôi thì không có sự phân biệt giữa Tiểu Thừa với Đại Thừa hay giữa Đại Thừa với Kim Cang Thừa, mà chỉ có một Thừa duy nhất - đó là Phật Thừa mà thôi. Ông ta có vẻ vui khi tôi đề cập như thế. Cũng chính từ quan điểm khởi đi từ lòng tôi như vậy, cho nên chùa Viên Giác tại Hannover đã đón tiếp rất nhiều chư Tăng Ni, Phật Tử khắp nơi trên thế giới không phân biệt Nam Bắc Tông hay Phật Giáo Nhật Bản, Đại Hàn v.v...

Cuối cùng thì tháng 11 năm 1999 đã có 20 người Bhutan đến ở chùa Viên Giác. Chỉ có một vài người nói tiếng Anh rành thì thông dịch lại cho những người còn lại. Họ sống rất kham nhẫn và làm việc rất tận tụy. Mặc dầu mùa Đông năm 1999 bước sang năm 2000 ấy rất lạnh. Nhiều khi họ chẳng ngại tuyết băng giá lạnh, ngày nào cũng như ngày ấy, có khi ngay cả ngày chủ nhật họ cũng đi làm. Họ là những nghệ nhân tạo nên những tác phẩm hữu hình ấy; nhưng hầu như họ đều vô danh, chẳng có một ai để lại tên tuổi của mình trên những tác phẩm có nghệ thuật cao như vậy. Có lẽ đây là quan điểm chung của những người Á Châu theo Phật Giáo chăng? Ngay cả những Thiền Sư, sống vang lừng một thuở mà khi ra đi lại chẳng để dấu vết nào. Đúng là:

Cuộc đời có cũng như không

Sớm còn tối mất bận lòng làm chi!

Mà bận lòng làm chi nữa khi tất cả đều bị vô thường chi phối. Nhìn họ, lúc nào họ cũng mỉm cười. Nhiều lúc nói họ không hiểu, tôi bảo Hạnh Tấn nói tiếng Tây Tạng, lại có một số người hiểu. Họ rất lịch sự, chỉ có một điều là ít siêng năng tắm rửa mà thôi. Có lẽ họ bị ảnh hưởng bởi ở xứ cao chăng? Vì lẽ giọt nước ngọt rất quý cho những trường hợp như thế.

Mỗi buổi sáng họ tự nấu ăn cho luôn cả buổi trưa. Sau khi dùng sáng xong, họ cho cơm vào hộp và mang theo để đến trưa dùng tại chỗ. Những ngày đầu tiên họ hoàn toàn dùng chay như ở chùa; nhưng có lẽ vì công việc nặng; nên những tháng sau đó buổi trưa họ ăn uống bên ngoài tự do hơn. Họ đi từ sáng sớm đến chiều tối mới về. Khi về thì họ dùng cơm chiều chung với chùa. Đặc biệt họ ăn rất cay; không thua gì người Đại Hàn mấy. Nghe đâu họ cũng có xuất cảng ớt cho Đại Hàn để làm Kim Chi đó.

Lâu lâu thì Hạnh Hảo thưa với tôi là: Sư Phụ nên cho họ đi thăm Hamburg hoặc Berlin hay tham dự những trận đá banh với các anh em Gia Đình Phật Tử. Họ rất vui, vì mỗi lần như thế có cơ hội để thi thố tài năng của mình cũng như xem phong cảnh địa phương cho biết để khi về lại quê còn kể lại cho thân nhân, bè bạn nghe nữa chứ!

Một hôm anh Kunzang dẫn ông Bộ Trưởng Bộ Xây Dựng đến gặp tôi để cảm ơn và nhân danh Chính phủ Bhutan tặng những tấm Thangkha có giá trị cho chùa. Nhân cơ hội nầy tôi cũng đã trình bày là Phật Giáo Việt Nam cũng như Phật Giáo Đức muốn có một gian hàng nhỏ tại chùa Bhutan ở khu EXPO để giới thiệu về những sinh hoạt Phật Giáo tại đây. Dĩ nhiên là ông ta bằng lòng và cũng đã chẳng có một điều kiện nào hết. Đây cũng là nơi mà cho Hạnh Hảo cũng như những người Đức Phật Giáo suốt trong 6 tháng triển lãm có cơ hội giới thiệu về sinh hoạt Phật Giáo của từng nhóm và từng Tông phái Phật Giáo khác nhau cho những người Đức đi tham quan.

Câu chuyện không dừng tại đó. Vì lẽ sau khi triển lãm xong ngôi chùa Bhutan nầy phải dỡ đi nơi khác. Do vậy họ cũng cần chỗ ăn ở cho 10 người làm trong vòng 2 tháng và xin ở lại chùa. Tôi cũng đã đồng ý luôn. Đây là những nhân duyên chính để sau nầy tôi có được những sự liên hệ tiếp theo.

Ngày chờ đợi khai mạc Hội Chợ Thế Giới EXPO năm 2000 cũng đã đến. Hôm đó là ngày 1 tháng 6 năm 2000. Từ bên Pháp qua có chư Tăng Bhutan và người Pháp tu theo Phật Giáo Bhutan đến làm lễ. Đầu tiên họ dùng các nhạc cụ như kèn, tù và, trống, linh đi ra tận ngõ để đón rước vị khách quý đến từ Bhutan. Đó là ông Bộ Trưởng Ngoại Giao của xứ nầy.

Chư Tăng Bhutan đón rước ông Bộ Trưởng Ngoại Giao

Về nghi lễ ngoại giao thì tôi không biết rõ phải chào như thế nào; cho nên người phụ tá chỉ tôi là khi gặp ông Ngoại Trưởng nên cầm một dải khăn trắng túm lại một đầu, còn đầu khác thì bung dài ra và đưa lên trao qua ông Bộ Trưởng. 

Nghi lễ đón ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Bhutan 

Sau khi tiếp chuyện bằng tiếng Anh với ông Bộ Trưởng, ông ta rất vui mừng và cảm động khi thấy Phật Giáo Việt Nam đã hỗ trợ hết mình cho Phật Giáo Bhutan như thế; nên trong bài diễn văn của ông đọc hôm đó, nhân danh Chính phủ cũng đã cảm ơn Phật Giáo Việt Nam chúng ta.

Khi nói chuyện với ông Bộ Trưởng thì ông Đại Sứ Toàn Quyền Bhutan tại Âu Châu cũng đến gần để tiếp chuyện.

Ông ta rất trẻ và lịch lãm. Ngôn ngữ ngoại giao vẫn là tiếng Anh. Chúng tôi nói chuyện về đủ mọi đề tài. Sẵn đó tôi có dịp để đề cập rằng sang năm 2001 chúng tôi muốn sang thăm xứ Bhutan một lần cho biết. Ông Bộ Trưởng Ngoại Giao nói rằng tại đây có ông Đại Sứ. Mọi việc sẽ do ông Đại Sứ lo sắp đặt cho chuyến đi nầy. Thế là từ đó tôi tiếp chuyện với ông Đại Sứ. Được biết cả Âu Châu chỉ có một Tòa Đại Sứ của Bhutan và Tòa Đại Sứ nầy hiện đóng tại Thụy Sĩ.

Tiếp chuyện cùng ông Bộ Trưởng và ông Đại Sứ Toàn Quyền của Bhutan.

Sau đây là tên của ông Đại Sứ cũng như địa chỉ và số điện thoại. Nếu quý vị nào ở Âu Châu thì nên liên lạc nơi đây để được hướng dẫn thêm.

Mr. BAP KESANG

Ambassador of the Kingdom of Bhutan

Chancery: 17 - 17 Chemin du Champ d' Anier

CH - 1209 Genève

Tel. 022 - 799 0890 FAX. 022 - 799 0899

Đến tham dự lễ khai mạc chùa Bhutan hôm đó ngoài tôi ra còn có chư Tăng chùa Viên Giác, các vị Sư người Đức tu theo phái Thiền Nhật Bản ở Steyerberg cũng như vị Sư người Lào.

Chư Tăng chùa Viên Giác và Đức tham dự lễ khai mạc.

Hôm ấy chỉ đặc biệt làm lễ theo Phật Giáo Bhutan còn các truyền thống Phật Giáo khác thì không cử hành. Lý do có lẽ vì thời gian không đủ, mà nhân viên chính phủ thì phải tham dự nhiều nơi khác nhau; nên nghi lễ có phần giản lược bớt. Tuy nhiên thời gian cũng đã kéo dài đến 2 tiếng đồng hồ. 

Sau khi dự lễ xong thì mọi người được mời đến quầy thức ăn để điểm tâm bằng nhiều loại thực phẩm khác nhau theo truyền thống Tây phương do người Việt Nam nấu. Những người khác thì tham gia đi xem các phòng triển lãm.

Toàn cảnh ngôi chùa Bhutan tại EXPO

Tháp tùng với ông Ngoại Trưởng để đi xem triển lãm.

Trên chánh điện có thờ Phật ở giữa. Hai bên thờ Ngài Guru Rimpoche (Padmasambhava) và Ngài Shabdrung Rimpoche; người có công thống nhất đất nước Bhutan và giành lại độc lập từ người Tây Tạng. Hình ảnh 2 vị nầy ở bất cứ chùa nào của Bhutan cũng được thấy trưng bày.

Bên tầng dưới có treo những tấm hình thác nước, phong cảnh thiên nhiên cũng như đồ thủ công nghệ của Bhutan. Có phòng triển lãm nơi dệt vải. Có phòng trưng bày những loại thuốc gia truyền, cây cỏ của phương Đông. Trong tầng dưới cũng có một phòng lớn được ngăn ra để làm chỗ ngồi thiền, mà tôi đã có mấy lần đến đây để hướng dẫn người Đức khi tham quan chùa Bhutan.

Cùng với Thượng Tọa Thích Quảng Bình, ông Đại Sứ, ông Ngoại Trưởng

và Thầy Shukhashito tham quan các gian hàng.

Mỗi ngày như thế có 4 hay 5 lần tham thiền. Mỗi lần độ 30 đến 45 phút. Trong 6 tháng ấy có rất nhiều trường phái Phật Giáo khác nhau của nước Đức đến đây hướng dẫn cho người Đức.

Một hôm tôi hỏi hai Thầy Gap Tshering và Kinga T. Dorji người Bhutan rằng:

- Tại sao quý Thầy không hướng dẫn người tham quan ?

Quý Thầy cười và trả lời rằng:

- Vì họ hỏi nhiều câu khó lắm.

Theo tôi nghĩ thì tiếng Anh của hai Thầy ấy đủ để giao dịch; nhưng khi đi vào chuyên môn, quả là vấn đề không đơn thuần chút nào. Mặc dầu quý Thầy cũng đã xong Cao Học tại Ấn Độ.

Toàn cảnh chùa Bhutan và khách tham quan.

Ban đầu hai Thầy nầy cũng cư ngụ tại chùa Viên Giác; nhưng sau đó thì họ dọn ra ở luôn ngoài chùa Bhutan này cho tiện đi lại cũng như ăn uống.

Đã có lúc báo chí loan tin rằng: Thành phố Hannover là thành phố chùa Phật Giáo. Mà quả thật thế, ở đầu đường Karlsruher là chùa Viên Giác. Kế tiếp trong khuôn viên EXPO là chùa Népal. Kiến trúc một nửa theo Ấn Giáo và một nửa theo Phật Giáo. Sau đó là chùa Bhutan. Chùa nầy mặc dầu triển lãm xong vẫn còn nguyên vẹn chứ không phải bị dỡ đi. Rồi chùa Tích Lan, Thái Lan, Lào v.v... đúng là một thành phố... Chùa. Nhưng sau tháng 10 năm 2000 các chùa nầy lần lượt thiên di đi nơi khác. Những tưởng đâu chùa Bhutan sẽ về ngự trị tại Steyerberg; nhưng vì đấu giá chưa xứng giá; nên cuối cùng Phật Giáo bên Pháp đã thắng và chùa Bhutan đã thiên di về đó. Còn chùa Népal nghe nói vì kêu giá quá đắt, chẳng có ai đoái hoài đến; nhưng cuối cùng rồi cũng phải dỡ đi; chẳng biết đem đi đâu. Còn các chùa khác thì làm trong khu triển lãm; nên việc xếp đặt lại không khó khăn gì mấy.

Chùa Bhutan được quần chúng đi xem đánh giá và cho điểm là chùa đẹp nhất trong khu triển lãm. Vì ngôi chùa đã nói lên hết được ý nghĩa của đề tài triển lãm năm 2000 là: Con người, thiên nhiên và kỹ thuật. Cả 3 khía cạnh nầy ngôi chùa Bhutan đều có đầy đủ cả.

Tôi đang bận rộn bao nhiêu chuyện cho EXPO và khóa học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 13 dự định tổ chức tại Amiens - Pháp Quốc, từ ngày 20 đến 30 tháng 7 năm 2000, thì nghe Hạnh Hảo nói rằng: Bên chính phủ Bhutan báo tin ngày 27.7.2000 sau khi Hoàng Hậu ghé thăm chùa Bhutan muốn ghé thăm chùa Viên Giác. Tôi ngỡ ngàng và lo lắng. Vì lẽ những ngày ấy tất cả chùa, ngay cả tôi cũng như Phật Tử tại Đức đều ở tại Pháp để tham gia khóa học; không thể đón tiếp Hoàng Hậu mà không chuẩn bị kỹ càng được.

Do vậy mà tôi nói với Hạnh Hảo rằng: Hãy bảo với người Đại Diện là Thầy phải có mặt ở Pháp. Vì chương trình đã định sẵn và ở đó có nhiều vấn đề quan trọng cần phải làm. Còn ở nhà Hạnh Hảo nên tiếp Hoàng Hậu đi. Cuối cùng rồi ngày ấy cũng đã đến. Hạnh Hảo và Thầy Shukhashito đã tiếp Hoàng Hậu tại chùa Bhutan nầy.

Hoàng Hậu Ashi Dorji Wangmo Wangchuck, Thầy Shukhashito và Thầy Hạnh Hảo vào ngày 27.7 tại Hannover.

Hạnh Hảo thì như quý vị đã biết, sau khi tốt nghiệp Thạc Sĩ (Cao Học) tại Đại Học Hamburg thì lo cho chùa Viên Giác hai năm về người Đức. Sau đó lo cho EXPO và sau EXPO thì tôi cho đi Népal và Bhutan để tham cầu học đạo. Sau khi ở Nepal và Bhutan 5 tháng thì về lại Đức và hiện tại đang nhập thất tại Hòa Lan nơi Niệm Phật Đường của Thượng Tọa Thích Minh Giác.

Còn Thầy Shukhashito là người Đức, xuất gia theo truyền phái Tiểu Thừa của Thái Lan, rành tiếng Anh và cũng đã có dịp ở chung với Chúng lý tại chùa Viên Giác một thời gian. Sau 7, 8 năm lưu học tại Á Châu, bây giờ Thầy ấy về lại Đức và làm một cái cốc nơi vườn nhà của cha mẹ để tu tịnh. Thỉnh thoảng vẫn ghé thăm chùa và hỗ trợ một số công tác có liên quan đến người Đức.

Vào lúc 20 giờ ngày 27 tháng 7 năm 2000 tại chùa Bhutan có tổ chức chiêu đãi và xem văn nghệ, có sự hiện diện của Hoàng Hậu. Cả Hạnh Hảo và Thầy Shukhashito đều có tham dự buổi chiêu đãi nầy.

Địa điểm chùa Bhutan trong khuôn viên EXPO 2000

Vé mời tham dự văn nghệ.

Sau khi ở Pháp về, tôi có hỏi Hạnh Hảo là cuộc tiếp rước như thế nào và Hoàng Hậu ra sao? thì Hạnh Hảo chỉ cho tôi một số gói quà to tướng đang chờ tôi khui ra, do Hoàng Hậu tặng đấy. Tôi nhìn những gói quà mà lòng tự thấy hơi khó xử. Vì đã không tiếp đón Hoàng Hậu mà còn nhận quà nữa xem sao được. Tuy nhiên tôi cũng đã cho người mở ra. Đầu tiên là một ghế trầm hương để ngồi thuyết pháp, mà ghế nầy cho mãi đến bao giờ tôi cũng chẳng dám ngồi. Vì sợ giống chuyện trong kinh Thủy Sám đã kể về Viên Án và Triệu Thố lắm. Vả lại cá nhân mình chẳng xứng đáng gì cả; nên lại để nguyên như vậy.

Riêng tấm thảm thì rất đẹp, dệt bằng tay, chiều dài độ 2 thước, chiều ngang 1 thước. Trên ấy có thêu 3 hoa mẫu đơn màu sắc rất tuyệt vời. Xanh, vàng, đỏ là 3 màu chính của thảm nầy. Tôi hiện để tấm thảm nầy nơi phòng làm việc của tôi.

Trên hai kiện hàng nầy tôi thấy 3 tờ giấy nhỏ:

Tờ thứ nhất có dấu hiệu của Hoàng Gia "Royal Government of Bhutan" và tên là VVIP. Nghĩa là very very importan person. Có nghĩa là "của người rất rất quan trọng". Hay Việt Nam mình nói gọn là VIP.

Nhãn thứ 2 cũng đề bảng VIP và có ghi phía dưới là Druk Air. Đây là Air line của Bhutan chuyên chở kiện hàng nầy. Có dịp tôi sẽ đề cập vào cuối sách nầy về Hàng Không nầy vậy

Cuối cùng là một Carte Visit cỡ nhỏ, trên có ấn dấu của Hoàng Gia Bhutan; phía dưới đề: Her Majesty The Queen of Bhutan - có nghĩa là Hoàng Hậu Bệ Hạ của Bhutan kính tặng Thượng Tọa Thích Như Điển, Viện Chủ chùa Viên Giác Việt Nam tại Hannover.

Thật ra việc nầy tôi chẳng đợi chờ; nhưng biết trả lễ làm sao đây? thôi thì chờ thời gian sẽ tính. Có lẽ phải đi Bhutan một chuyến mới có thể giải quyết được những vấn đề nầy.

Những ngày sau đó thì có ngày gọi là: Tag der Weltreligion. Ngày Tôn Giáo Thế Giới. Tất cả các Tông phái Phật Giáo tập trung tại chùa Bhutan để cầu nguyện.

Trên đường đi đến chỗ cầu nguyện chung

Gồm có Phật Giáo Nhật Bản, Tây Tạng, Bhutan, Việt Nam, Đức, Lào v.v... ai ai cũng hớn hở vui mừng cho ngày trọng đại ấy.

Mọi người đang chuẩn bị cho lễ cầu nguyện.

Tại chùa Bhutan chúng tôi đã tụng kinh Bát Nhã tiếng Việt, tiếng Đức và tiếng Nhựt. Sau đó tôi nói một bài pháp thoại ngắn bằng tiếng Đức, nhằm nói lên ý nghĩa của Ngày Lễ Tôn Giáo nầy. Hôm đó có ít nhất là 100 người tham dự tại chùa Bhutan.

Thiên Chúa Giáo và Tin Lành thì cầu nguyện tại nhà thờ trong khu nhà EXPO của họ. Hồi Giáo thì cầu nguyện tại Mosche trong phố. Ấn Độ giáo thì cũng thế. Do Thái giáo cũng vậy. Tất cả Đại Diện của 5 tôn giáo lớn nầy đều tập trung tại một nơi gọi là Plaza để cầu nguyện theo nghi lễ tôn giáo của mình.

Chư Tăng Việt Nam và Phật Tử Đức tham dự lễ cầu nguyện tại chùa Bhutan.

Đức Tổng Giám Mục Hofmeier và các Tôn giáo bạn.

Đại Diện cho Phật Giáo Đức có đọc một vài phẩm trong kinh Pháp Cú bằng tiếng Đức và một vài em bé lên tặng quà cho những người đại diện tham dự lễ.

Mỗi tôn giáo đều có một sắc thái riêng và cuối cùng thì có một bài hát chung cho 5 tôn giáo nhân ngày trọng đại ấy.

Đại diện 5 Tôn Giáo lớn của Thế Giới.

Có nhiều người tham dự hôm đó rất cảm động. Họ chảy nước mắt. Vì biết rằng một cơ hội như thế rất khó xảy ra tại Hannover nầy.

Số người tham dự hôm đó tại buổi lễ cầu nguyện chung nầy độ chừng 2.000 người, đủ các sắc dân và đủ mọi thành phần của Tôn Giáo.

Ngày hôm đó cũng là ngày đẹp trời, rất đẹp trời. Nhằm ngày 12 tháng 9 năm 2000.

Tôi cho đăng vào sách nầy nguyên văn 5 bài cầu nguyện về Hòa Bình bằng các thứ tiếng nhân Ngày Tôn Giáo của Thế Giới để mọi người lãm tường(Xem trang ..... ) . Đây là một dấu hiệu tốt, một bước tiến nhảy vọt của tôn giáo thế giới ngày nay. Do vậy phải cảm ơn Hannover. Cảm ơn nước Đức. Cảm ơn chùa Bhutan. Cảm ơn tất cả mọi người. Vì nếu không có cái nầy sẽ không có cái kia và nếu không có cái kia sẽ không có cái nọ. Tất cả đều do nhân duyên để thành tựu, rồi tất cả cũng do nhân duyên biến thể đi mà thôi. Đó là lời Phật dạy. Đó là pháp trong muôn pháp và giáo lý nầy vẫn còn mãi mãi giá trị đến tận ngàn sau nữa.

Những người tham dự Lễ Cầu Nguyện Chung. 

FRIEDENSTEXTE 

Verlesen von Vertretern der Weltregilionen in Hannover am 12. September 2000

Tag der Weltreligionen auf der Weltausstellung EXPO 2000

---- ♣----

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2015(Xem: 8316)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes). Bạn sẽ chọn một quan điểm và người đối tác trong cuộc tranh luận sẽ thách thức quan điểm này bằng nhiều quan điểm khác nhau.
03/10/2015(Xem: 10308)
Xin đảnh lễ chư đạo sư đáng tôn kính nhất! (1) Tôi sẽ hết lòng giảng giải, Các điểm trọng yếu trong tất cả Kinh điển của Đấng Chiến Thắng, Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
03/10/2015(Xem: 7568)
Một ngày nọ, khi Milarepa đang ở trong hang động một mình thì hai vị khách tìm đến hỏi han. - Ông ở một mình à? Ông không thấy cô đơn sao? - Tôi luôn luôn sống với một người nào đó, không bao giờ đơn độc. Ngài trả lời. - Nhưng ông sống với ai? Người trẻ tuổi hơn trong hai người hỏi ngài.
03/10/2015(Xem: 8251)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người. Nó cũng có thể là nguồn gốc của sự lừa dối bản thân, đau đớn và tuyệt vọng tinh thần. Tất cả đều dựa vào việc chủ động tạo ra một quan hệ lành mạnh. Điều này lại tùy thuộc vào một thái độ thực tiễn về trình độ của chính mình và vị thầy, về mục đích, động lực và ranh giới của mối quan hệ.
03/10/2015(Xem: 8001)
Milarepa có một người chị cứ khăng khăng bảo ngài đi cưới vợ, xây nhà và sinh con, nhưng ngài đã bỏ nhà ra đi và gặp vị thầy của mình là Marpa. Khi chị của ngài biết rằng Marpa đã lập gia đình, bà càng ép buộc Milarepa hơn nữa.
03/10/2015(Xem: 7574)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon). Những lỗi lầm này có thể xảy ra trong tâm thức của một Bồ tát thánh nhân từ sơ địa cho đến thất địa, như đã được trình bày theo hệ thống trong sơ đồ của trường phái Y Tự Khởi (Svatantrika). Mặc dù chúng đã được trình bày theo hệ thống bằng cách nghiên cứu văn học Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita, Far-reaching Discriminating Awareness, Perfection of Wisdom), các lỗi lầm này cũng có thể liên quan đến những khía cạnh khác trong việc tu học và hành trì.
03/10/2015(Xem: 10311)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe noi theo gương của ngài để đạt được giải thoát và giác ngộ. Tiểu sử của ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419) thật sự gây nhiều cảm hứng.
03/10/2015(Xem: 6513)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của nhà sư người Mỹ Thanissaro Bhikkhu (1940- ), tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật giáo Theravada, về việc chữa trị bệnh tật trong tâm thần cũng như trên thân xác nhờ vào phép thiền định về hơi thở. Tuy là một bài giảng ngắn, thế nhưng việc mô tả phép thiền định này thật hết sức chi tiết và rõ ràng mà mọi người đều có thể mang ra để luyện tập. Độc giả có thể tìm đọc bản gốc tiếng Anh của bài này trên mạng của nhà sư Thanissaro:
01/10/2015(Xem: 9184)
Trước trung thu nhiều người có hỏi tôi: “Ở Sài Gòn, tết trung thu, ngoài phố lồng đèn bạn có biết đi đâu được nữa không?”. Tôi cũng tự băn khoăn, liệu trung thu năm nay mình sẽ làm gì, đi đâu để trung thu tuổi 19 không chỉ là câu chuyện của sum vầy, của chiếc bánh trung thu được san sẻ cùng chị cùng mẹ. Tôi muốn trung thu này sẽ còn là câu chuyện của ý nghĩa, của niềm hạnh phúc, của yêu thương, của ấn tượng khó phai. Và tôi đã có lựa chọn cho chính mình - cùng vun đắp Trung thu này cùng CLB yêu sách Thái Hà và những mầm non nơi xa xôi đô thành.
01/10/2015(Xem: 8307)
Vạn Dặm Rong Chơi, Đường Rộng Mở _ Thích Từ Lực
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]