Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mùa Xuân đạo hạnh

13/05/201313:03(Xem: 10920)
Mùa Xuân đạo hạnh
Cho Trọn Mùa Xuân


Mùa Xuân Đạo Hạnh

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-4Hôm nay nhân ngày xuân tết, Thầy có đôi lời nói về xuân đạo để trao gởi đến các huynh để làm quà xuân. Nói đến xuân đạo tất nhiên phải có xuân đời. Bởi thế gian tương đối đạo đời đô ngả, do đó mới có mê ngộ, giả chơn, vui khổ. Như kinh Phật nói, do có chúng sanh khổ mà Bồ-Tát hành đạo Bồ-đề để cứu khổ chúng sanh.

Như các huynh đệ đều biết, xuân đời là xuân ngoại tại theo cảnh trần, người đời vui áo đẹp, trang sức thiệp xuân, tiệc tùng chúng tụng, lì xì, pháo nổ, vui cười hỷ hạ trong ba ngày tết. Đó là những người may mắn dư ăn, dư mặc, tiền bạc có thừa. Nhưng bên cạnh đó còn có biết bao người sống trong cảnh bất hạnh bịnh hoạn, nợ nần, con bất hiếu, suốt năm đầu tắt mặt tối ngược xuôi chạy lo miếng ăn, gia đình phân tán, sự nghiệp chẳng thành, thì xuân tết đến lại làm cho lòng họ thêm chua xót, tủi hờn về thân phận kiếp sống phù sinh. Nên thi nhân kín đáo thốt lên:

Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau

Khác với xuân đời, xuân đạo không tạo cho riêng những người có được đời sống may mắn hưởng vui trong ngũ dục lạc hay xúc tác kẻ bất hạnh đau buồn trong cảnh bần cùng phân ly. Xuân đạo hạnh là xuân tâm an lý đắc tự tại trong cảnh thanh bần hay phú quý, an nhiên trước tình đời và vạn vật. Xuân đạo là xuân nội tại an nhiên, là tâm xuân, tâm không dính mắc theo hoàn cảnh thăng trầm thịnh suy tan hợp. Xuân đạo là xuân không nặng tình về hình thức chưng diện điểm trang bên ngoài, mà hoài bão thanh tịnh nội tại tâm linh bằng cuộc sống tỉnh thức tâm bình tự tại, nên không chướng ngại cảnh vật thời gian hợp tan suy thịnh.

Vậy làm thế nào để có tâm xuân, mùa xuân nồng hậu hương sắc đạo hạnh? – Kinh điển Phật giáo có khả năng tạo cho nhân loại có vườn hoa xuân đạo hạnh vĩ đại và trải dài khắp nhân gian, ngạt ngào hương xuân tươi mát muôn thời muôn nơi muôn thuở. Giáo lý đạo Phật có thừa năng lực tạo cho những ai thức thời biết tìm lẽ sống bước vào vườn hoa đạo hạnh vô biên đó để hái hoa xuân, thưởng thức hương xuân và sống chơn thường an lạc trong thanh khí trời xuân.

Trong vườn hoa đạo hạnh có những đóa hoa tươi mát ngạt ngào hương sắc như hoa Bát-chánh-đạo, Tứ-diệu-đế, Thập-nhị-nhân-duyên, Lục-độ, Tứ-nhiếp-pháp, Ba-mươi-bảy-phẩm-trợ-đạo, Ngũ-giới, Thập-thiện v.v… đấy là những đóa hoa xuân thiên nhiên vĩ đại trải rộng dài tươi mát ngào ngạt hương sắc khắp cả trần gian. Bất cứ ai, không luận già trẻ gái trai sang hèn giàu nghèo, hễ biết cầm lấy một trong những đóa hoa đạo hạnh kia ấp ủ vào lòng tha thiết thương yêu gìn giữ nó, thì tức khắc thân tâm an lành thanh thoát, thưởng thức hương sắc hoa xuân thơm mát như nước cam lồ, bao nhiêu phiền muộn liền đó tiêu trừ, cảm nghe tự đáy lòng từ lâu hoang dại buốt giá được sưởi ấm, thầm nở nụ cười xuân của Bồ-Tát Di-Lặc. Chỉ cần biết cầm lấy một trong những đóa hoa xuân đạo kia ấn sâu vào lòng, thận trọng giữ gìn thì tự nhiên tâm an lý đắc trần ngập trời xuân, nhìn khắp mười phương đất trời đều thấy hoa tươi bướm lượn, vạn vật hòa điệu cùng tâm linh, sinh động vui cười không còn có sự ngăn cách giữa người và mình, vạn vật và ta. Cổ
đức nói:

Tâm xuân vũ trụ đều xuân
Tâm bình thế giới đâu đâu cũng bình

Ngày xưa tôn-giả Tu-Bồ-Đề hỏi Phật làm thế nào được tâm an lý đắc để có mùa xuân bất diệt? Đức Phật trả lời: “Nên an tâm vô sở trụ.” Tu-Bồ-Đề vâng theo lời Phật dạy, vận dụng trí huệ để tâm nơi vô-sở-trụ, nhờ đó mà rũ sạch hết phiền não trần cấu, tâm trí khai thông, liền được trời xuân tràn ngập nơi lòng, suốt thông thật tướng các pháp, thể nhập chân lý vạn hữu. Bất cứ ai trong chúng ta chứ chẳng riêng gì tôn giả Tu-Bồ-Đề, hễ một khi bước vào vườn hoa đạo hạnh, nhặt lấy một trong những cành hoa kia ấn sâu vào lòng ấp ủ với tâm quý mến giữ gìn, thì ngay đó sống trong trời xuân Vạn-Hạnh. Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, La-Hầu-La, v.v.. vô số các tôn giả cho đến kỳ nữ Liên-Hoa-Sắc, chàng gánh phân Ưu-Ba-Ly biết nghe lời Phật khuyên, nhặt lấy hoa đạo kia ấn sâu vào lòng với tâm yêu quí giữ gìn nó một cách cẩn thận thiết tha mà các vị đó đã trọn hưởng trời xuân bất tận, thoát kiếp trần lao phiền não đọa đày.

Thậm chí đến những kẻ vui thích chinh chiến binh đạo, hăng máu với chiến trận, tự lấy làm vinh dự bằng xương trắng máu đào chồng chất núi sông như vua A-Dục, kẻ vô minh gây tội ác sát hại cha mẹ như A-Xà-Thế, phá hại Phật như Đề-Bà-Đạt-Đa, cuồng tín ngoại đạo như chàng Vô-Não v.v… Nhưng khi biết nhận lấy cành hoa đạo với trọn cõi lòng yêu thích giữ gìn thì ngay đó được thưởng thức trời xuân hương hoa ngào ngạt, hương sắc hoa đạo đã trang sức thân tâm, họ đã trở thành những người lành vang danh trong thiên hạ và tận hưởng mùa xuân đạo hạnh chơn thường miên viễn. Trong sách sử nhân loại còn ghi đậm nét, biết bao người khốn cùng quẫn bách muốn quyên sinh, biết bao kẻ toan trầm mình theo dòng nước vì thất chí lỡ vận, biết bao gã si tình hoặc tự thấy mình thông minh bác học sống đời ngông cuồng kiêu căng mục hạ vô nhơn bất cần đời, nhưng một khi biết nhặt lấy hoa đạo ấn sâu vào lòng với tâm yêu quí thích thương gìn giữ cẩn thận, thì liền đó có được mùa xuân hạnh phúc miên trường, thân tâm thấm nhuần hương sắc trang nghiêm, đời trở nên an lạc tươi sáng thánh thiện.

Các huynh đệ cũng nên ghi nhớ rằng, khi hoa đạo đã cầm trên tay, ngay đó ấn sâu vào lòng, cẩn thận giữ gìn trong trạng thái luôn luôn minh mẫn tỉnh thức sống với hoa, săn sóc hoa để hương sắc hoa trang sức thân tâm mình được thanh tịnh thơm mát như hoa. Tuy nhiên, phải ý thức rằng, tay đang cầm hoa mà thực không thấy có cầm, cũng không có hoa nào để mình cầm, “nhứt thiết giai không, tâm vô trụ trước,” tâm tỉnh thức trực đạt cảnh giới không, được như thế mới thực sự đang sống trong lòng mùa xuân đạo hạnh muôn thuở.

Ngài Quán-Tự-Tại nhờ thâm nhập quán chiếu ngũ uẩn “đều không” mà vượt thoát ngòai vòng khổ ách. Từ ý nghĩa này, các huynh đệ nên ý thức, hễ tâm còn chấp trước là còn dính mắc. Tâm còn gút mắc là còn rắc rối, còn nhân ngã thị phi bỉ thử. Hễ còn nhân ngã thị phi bỉ thử thì còn hơn thua đắc thất, liền đó nẩy sanh phiền não khổ lụy buộc ràng, khó thoát khỏi sanh tử luân hồi. Thế nên, tâm đơn giản thì sự việc giản đơn, không gợn chút phiền não nẩy sanh. Tâm hỷ xả buông thả thì lòng mở rộng thong dong không biên giới, thanh thản mặc sức hưởng xuân đạo hạnh. Nếu tâm không như thế thì cho dù chức vị trong đạo hay ngoài đời có cao đến đâu, giàu sang phú quí đến mấy, hay chùa to Phật lớn đi nữa, mà chấp trước đắc thất hơn thua thì khó mà được giải thoát với phước đức vô lậu, tất nhiên bị phàm tâm chế ngự, để rồi phải đọa lạc sanh tử luân hồi trong ba đường ác.

Xưa có vị thiền sư uyên bác, giảng kinh thuyết pháp làu thông, tiếng khen lan truyền bốn phương, thiên hạ xa gần ngưỡng mộ, đồ đệ đông đảo, chùa viện huy hoàng. Ngày ngày thiền sư ngoài giờ tham thiền giảng kinh ra, Ngài an nhàn thả bộ thiền hành trong vườn, ngắm cây kiểng trúc tùng mai bách, hòn non bộ xinh xắn trong hồ Quan-Âm nước chảy róc rách, thanh thoát thiền vị biết bao! Trước phong thái thong dong trong cảnh thanh nhàn thiền vị đó, đã có số đệ tử Ngài ca tụng thần thánh hóa khiến cho một ít thập phương Phật tử tin theo nức lòng ngưỡng mộ nghĩ rằng thiền-sư đã chứng đạo hoặc Bồ-Tát hóa thân độ đời. Nhất là thiền-sư lúc nào cũng giảng nói khuyên người dùng trí huệ buông xả, chê việc niệm Phật là còn chấp,xem nhẹ người tụng kinh bái sám là thấp kém hạ căn. Mà chính thiền-sư cũng tỏ ra thanh cao buông xả thật. Nhưng tự đáy lòng thâm sâu của thiền-sư lại đặc biệt thương mến bụi mía do chính tay mình trồng, nên ngày nào mía cũng được chính thiền sư săn sóc nước phân vui xới cẩn thận. Càng săn sóc, mía càng xanh tốt mập cao. Thiền sư vui thích bụi mía, ngày ngày ngắm nghía vuốt ve, đôi lúc còn đắc ý khoe với bổn đạo đệ tử. Thế rồi vào một chiều, thiền sư cảm thấy thân thể bất an, trong người khó chịu, không còn ra vườn như thường nhật. Nằm trên giường bệnh, mà thiền sư không quên nhắc nhở đệ tử nên nhớ chăm sóc bụi mía thương thích kia. Vài ngày sau đó, trước khi trút hơi thở cuối cùng, thiền sư vẫn còn cố gắng căn dặn đệ tử nhớ chăm sóc bụi mía. Do lòng thương mến bụi mía, mía đã bao tháng ngày quen tay quen mắt săn sóc của thầy. Vừa trút hơi thở cuối cùng, cận tử nghiệp đã đẩy thần thức thiền sư vào đường súc sanh làm kiếp con sâu trong bụi mía.

Nhớ lại ngày thơ ấu khi Thầy còn làm chú điệu ở trong ngôi chùa cổ. Có một hôm Bổn-Sư của Thầy đang giảng dạy về Qui-Sơn Cảnh-Sách cho học chúng. Người giảng đến câu “nghiệp quả sở khiên thành nan đào tị.” Có nghĩa là một khi nghiệp quả kéo lôi thì thật khó mà trốn thoát. Trong lúc Bổn-Sư của Thầy đang giảng giải về ý nghĩa chữ nghiệp, bỗng đâu trên đầu cột mái chùa có chú cắc kè kêu lên mấy tiếng khô khan như than thở. Bổn-Sư nhân đó nói: “Xây cất chùa mà chấp trước vào đó để tự hào tự đắc mình có chùa to Phật lớn, rồi tự mãn sanh tâm ngã mạn, khi chết, do lòng tiếc nuối có thể bị cận tử nghiệp dẫn dắt vào đường súc sanh làm con cắc kè.” Các huynh đệ đã từng nghe chuyện vua Lương-Võ-Đế hỏi Đạt-Ma thiền tổ về việc nhà vua làm hơn ngàn cảnh chùa, đã cúng dường nuôi dưỡng hơn ba ngàn tăng ni, việc làm đó có công đức ít nhiều gì không, thì Đạt-Ma thiền tổ trả lời: Không! Và liền đó, Đạt-Ma lặng lẽ rời xa hoàng cung, từ tạ sự cúng dường cung phụng của nhà vua để vào núi ở ẩn tu.

Các huynh đệ cũng nên biết, tất cả sự việc ở đời hữu hình tất hũu hoại, hữu tâm chấp trước tất hữu chướng ngại trên bước đường tu hành đạt đạo giác ngộ giải thoát, như kinh Kim-Cang Phật nói: “Nếu lấy hình sắc để thấy ta, dùng âm thinh để cầu ta, người đó tu tà đạo, không thể nào thấy được Như-Lai.” (Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thinh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như-Lai.)

Người tu học Phật phải luôn luôn ý thức tất cả sự việc thế gian đều là mộng huyễn giả tạm, chúng ta làm tất cả Phật sự đều phương tiện nhằm để hoằng truyền chánh pháp lợi ích chúng sanh. Không nên chấp vào đó thấy có không, còn mất, đắc thất, hơn thua, mà sanh tâm vui buồn tự cao hay mặc cảm. Kinh Bát-Nhã Phật nói: “Pháp thượng hữu xả hà huống chi pháp.” Nghĩa là, Pháp Phật còn buông xả huống nữa là phi pháp. Bởi vì một khi chứng ngộ rồi thì đâu còn cần kinh điển, cũng như kẻ đã qua sông rồi thì đâu cần ngồi thuyền? Nên biết thế gian vạn vật hình danh sắc tướng cho đến chính thân con người cũng đều do duyên sanh, hư vọng sanh diệt. Như kinh Thủ-Lăng-Nghiêm đức Phật xác định về bản chất vạn pháp: “Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh. Nhân duyên biệt ly hư vọng hữu diệt.” Nghĩa là sự vật trên đời nầy do nhân duyên hòa hợp mà sanh thành với bản chất tạm bợ hư vọng không thật. Một khi nhân duyên không còn hòa hợp nữa thì sự vật tan hoạt theo hư vọng. Đến như cái thân của ta đây, mạng sống của ta đây còn không giữ được thì cái gì ở ngoài thân ta như tiền bạc nhà cửa danh vọng làm sao có thể tồn tại được! Xưa nay đều như thế và mãi mãi về sau cũng như thế.

Các huynh đệ nên nhận định rõ ý nghĩa nầy, ghi tâm khắc cốt để thời thời khắc khắc cảnh tỉnh mình, quán chiếu nội tâm sống trong tỉnh thức, đừng để danh sắc thị phi lung lạc mê hoặc cuốn lôi. Việc gì qua rồi thì đừng ngồi suy nghĩ luyến tiếc. Đừng chấp vào lời nói khó nghe, cử chỉ khó coi của người để khỏi phiền não bận tâm. Ngày trước các huynh đệ phát tâm xuất gia học đạo bằng cõi lòng trong sáng nhiệt tâm như thế nào, thì ngày nay và cho mãi đến suốt đời phải nên sống trọn với sơ tâm xuất gia tinh thuần trong sáng ấy và gìn giữ cẩn thận nó để hành đạo. Đừng để tinh thần lúc sơ tâm xuất gia phai mờ thối thất thì đường tu Phật sẽ khó đạt thành. Được như vậy thì ngày kiến tánh thấy Phật không xa. Do đó mà cổ đức nói: “Sơ tâm xuất gia, thành đạo hữu dư” là ý nghĩa nầy đây.

Người tu học Phật xa lìa ngũ dục thế gian, nhất là người xuất gia đã quyết cắt ái từ thân, nguyện hiến dâng trọn đời mình cho Phật pháp, trên cầu giác ngộ giải thoát, dưới nguyện hóa độ chúng sanh, hiện đời hành đạo bồ đề, lai thế làm bậc đạo sư nhân thiên. Nếu không sống với ý nghĩa nầy, không có ý chí như vậy, thì không còn ý nghĩa tu học Phật. Nhất là không có tinh thần buông xả vị tha, tâm không dẹp bỏ nhân ngã bỉ thử nghi kỵ thị phi tham sân chấp ngã, không biết để danh dự tăng đoàn, sự hưng thịnh đạo pháp trên danh dự của cá nhân mình, thiếu nghiêm túc hành trì giới pháp mà mặc áo xuất gia ăn cơm bá tánh đàn na không biết tàm quý thì đó là lạm xưng tăng già Thích-tử thật khó mà tránh khỏi rơi vào ba đường dữ.

Ngày hôm nay các huynh đệ còn ngồi trên ghế Phật-Học-Viện chuyên tâm tu học, lòng dạ tinh thuần thiết tha với đạo như thế nào, ngày mai kia khi ra hành đạo, Thầy ước mong các huynh đệ cũng nên giữ lòng trong sạch tinh thuần như thế, luôn luôn sống theo giáo lý đã học, thận trọng ngôn hạnh trong khắp mọi thời mọi nơi, được như thế thì mới không rời vào vòng danh sắc tham chấp nhân ngã thị phi. Tâm tâm niệm niệm luôn nghĩ nhớ lời Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như-Lai.” Nghĩa là, nếu còn chấp vào hình danh sắc tướng thì còn mắc vào nhân ngã, khó thoát ra ngoài lưới thị phi bỉ thử, để rồi từ đó phải bị chìm vào trong tình thức phân biệt phàm phu đời đời không thấy Phật. Dù có chức vị cao, chùa viện lớn, bổn đạo đông đến mấy đi nữa, những thứ đó không thực tế giúp ta thoát vòng luân hồi nghiệp báo. Như Ngộ-Đạt Quốc-Sư hơn mười kiếp tinh tấn tu hành lừng danh thiên hạ, làm thầy của vua chỉ vì một niệm mống tâm thích ghế trầm hương của vua ban thưởng mà phải rơi vào vòng quả báo!

Các huynh đệ phải luôn luôn tự cảnh giác để giữ lòng trong sáng suốt trọn đời tu mới có thể thăng hoa đạt đạo. Nếu chỉ muốn sống đời dễ dãi tà tà la cà nơi nầy nơi khác cho qua ngày hết tháng, thích trò chuyện luận bàn ói cười vui với những chuyện thị phi vô nghĩa thì khó tránh khỏi sa ngã vào vũng bùn danh lợi hơn thua, chẳng những đường đạo không được gì, mà đường đời phạm phải lỗi bất hiếu, thiếu bổn phận làm người, và như vậy vô tình nợ của đàn na tín thí mà ngày ngày mình thọ dụng. Tâm không biết kiêng nể nhân quả nghiệp báo thì sẽ đưa đến hành động gây rối tăng đoàn, họa hại Phật pháp, để rồi khó tránh khỏi phạm những tội ngũ nghịch! Nhân cách không thành thì đạo cách khó đạt. Phải quyết dẹp trừ tâm niệm địa phương, bè phái, tự ái, cá nhân. Biết sống theo pháp lục hòa, đặt đại nghĩa đạo pháp và chúng sanh lên trước để phụng sự, dù phải hy sinh. Luôn luôn phát triển tâm khiêm cung nhẫn nhục thượng kính hạ nhường, chớ nên vượt bực tôn ty. Tuyệt đối y theo giới pháp hành đạo. Như thế mới thoát vòng “kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn.” Nghĩa là đời nay không chánh tâm thực hành đúng theo lời Phật dạy, không cố gắng tu tập để thâm nhập Phật pháp, thì sẽ rơi vào loài thú mang lông đội sừng để hoàn trả nợ áo cơm tín thí và ân đức sanh dưỡng của mẹ cha.

Mỗi thời công phu khuya trước Phật đài, các huynh đệ đều thành tâm nguyện “tương thử thân tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân.” Trong khi tán thán công đức Phật, các huynh đệ nguyện quyết chí tu hành đạt đến “Tam môn thanh tịnh tuyệt phi ngu,” đó là những lời phát nguyện thành khẩn tha thiết của người tu học Phật xuất trần thượng sĩ. Chân chánh tu học theo Phật, không phải chỉ đọc tụng làu thông kinh sách là đủ, mà còn phải thực hành ý nghĩa kinh luật. Tụng kinh, thuyết pháp, giảng đạo, viết sách không phải chỉ để cho người nghe và lấy đó làm đắc ý với những lời khen tặng, mà trước nhất là tu tâm sửa tánh bồi đức cho mình, rồi sau hồi hướng pháp giới chúng sanh đều được an lành lợi lạc. Tức là trước phải tự giảng cho mình, thuyết cho mình, viết cho mình. Nói cách khác, nghĩa là phải tự hỏi, tự cảnh giác mình đã thực sống với những điều mình đã tụng, giảng, nói, viết đó chưa? Nếu chỉ lo nặn tim bóp óc viết triết lý cao siêu, giảng nói thao thao văn chương lưu loát mà tâm ý chưa xả nhơn ngã thị phi, đời sống thường nhật phi đạo hạnh thì hóa ra đã trở thành kẻ chăn cừu cho chủ, người đếm bạc ngân hàng, máy phát thanh chẳng khác. Thế nên, mình phải thành tâm thiện chí thật hành những gì mình hiểu rồi sau đó mới truyền dạy cho người. Đức Phật và các đệ tử chứng thánh của Ngài đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa kinh điển qua hành vi cử chỉ tâm niệm hàng ngày. Vì vậy, cổ đức nói: “Đạo nơi đời sống thường nhựt chớ chẳng tìm đâu xa.” Nghĩa là thời thời phải biết ý thức hành vi biến chuyển của mình để thường hằng thúc liễm thân tâm, lấy từ bi trí huệ, hỷ xả soi sáng cho đời sống thực tại, đó là đạo.

Nhân đây Thầy tưởng cũng nên nhắc thêm: Nếu ngày kia các con hành đạo thâm niên được tấn phong thượng-tọa, hòa-thượng cũng chớ mống tâm vui mừng, và khi người ta không xưng gọi mình bằng những danh từ đó thì cũng đừng buồn chấp. Tu Phật đặc biệt quan trọng là xả danh tướng. Danh tướng không xả thì ba đường ác khó thoát qua. Mà kinh nghiệm cho thấy, người xuất gia tu học Phật đẹp nhất, gần gũi nhất, thân tình nhất và bình dị nhất là xưng gọi Thầy. Danh từ Thầy nó mang đầy chất liệu hiền hòa lân mẫn thân thiết làm sao! Hoặc chẳng may ngày kia nếu nghiệp trần chướng duyên còn nặng không đủ duyên phước tiếp tục sống đời xuất gia thì đường đường chân chánh cầu xin xả giới hoàn tục làm cư sĩ nhiệt tâm thành ý hộ đạo, đem lòng kính trọng chư tăng chân tu hoằng pháp, làm tròn bổn phận của người cư sĩ chơn thuần cũng rất quý, chớ nên để người gọi mình là thầy nữa sẽ bị tổn phước. Ngày nào thuận duyên trở lại xuất gia thì nên bắt đầu từ sa-di trở đi, không nên vượt bực mà tổn phước. Mắc vào hình danh sắc tướng chẳng nh
ững tự mình tổn phước đức mà còn tạo sự sứt mẻ thứ tự giới luật, phiền phức tăng đoàn, thế nhân dị nghị.

Đệ tử Phật có hai hạng xuất gia và tại gia. Xuất gia thuộc Tăng-bảo một trong ba ngôi Tam-Bảo, ngày đêm chuyên tâm tu tập, hoằng pháp lợi sanh, sống đời thanh tịnh bằng sự nghiêm chỉnh thọ trì giới pháp. Còn hàng tại gia thì có bổn phận hộ đạo hộ pháp. Có những người đã hoàn tục mà còn muốn người gọi mình là thầy, được kính trọng như Tăng-bảo thì tổn phước biết chừng nào. Các huynh đệ nên tỉnh thức phải hết sức tỉnh táo nhận định rõ biết mình đang ở cương vị nào và đem hết lòng làm xứng đáng vào cương vị đó, ấy là thiện-tri-thức.

Tóm lại, đạo ngay trong đời sống tâm niệm hành vi. Tùy hỉ công đức, nhường trước cho người, phước bất khả hưởng tận, nhẫn nhục khiêm cung, tận trung, tận hiếu, tận tâm sửa tánh là đạo. Đặc biệt chớ nên nhìn vào lỗi người mà phải hồi quang phản chiếu quán sát tìm lỗi nơi mình. Kinh Pháp Cú, đức Phật nói: “Thấy lỗi người thì dễ, thấy lỗi mình mới khó.” Thích phanh phui chỉ trích lỗi người, còn lỗi mình thì cố che dấu như kẻ cờ gian bạc lận dấu quân bài, như người cố dấu thói hư tật xấu sợ người ngoài biết. Đây là bịnh chung của kẻ tâm đầy phàm tục. Người tu học Phật không nên mắc phải. Người quân tử không muốn nghe thấy lỗi người. Kẻ tiểu nhơn ưa thích cố tìm thấy lỗi người. Phật tử thì phải biết chính mình thật rõ, chỉ muốn thấy nghe điều tốt của người để tự gạn bỏ tà quấy, xây dựng chánh niệm chánh hạnh. Nhất là người xuất gia, điều trọng yếu là y theo giới pháp hành trì, biết tôn ty khiêm cung, tập đời sống vị tha, buông thả, sống vô tâm. Vô tâm thì đạo có cơ đạt thành. Kinh Pháp-Bảo-Đàn, Lục-Tổ Huệ-Năng có lời khuyên chúng ta rằng:

Nhược chân tu đạo nhơn
Bất kiến thế gian quá

Nghĩa là:
Nếu người tu chân chánh
Chớ thấy lỗi thế gian

Năm mới, Thầy có đôi lời thân thiết trao gời đến các huynh đệ làm quà xuân. Hy vọng từ những lời chân tình mộc mạc nầy, các huynh đệ có thể ít nhiều xây dựng cho mình mùa xuân thường tại nơi lòng, để được mãi mãi sống trong mùa xuân đạo hạnh.

Biết trách mình thì được tiến bộ, thanh tịnh, an lạc. Còn trách người là còn khơi nguồn buồn phiền, xa cách, tâm không an bình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2018(Xem: 7407)
Hôm nay, chúng tôi hẹn nhau đi ăn cơm chay vì đang là ngày 14 âm lịch. Nhưng cuối cùng, chúng tôi không vào các nhà hàng bán đồ chay trong vùng hay đi đâu xa mà cùng mang đồ ăn, trái cây đến thăm một người anh em huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ đang lâm trọng bệnh: Huynh trưởng Quảng Quý Huỳnh Kim Lân (HKL). Tôi và anh Bạch Xuân Khỏe đến thăm anh Quảng Quý Huỳnh Kim Lân khi nghe tin bệnh tình anh đã đến giai đoạn cuối, khó lòng qua khỏi.
30/07/2018(Xem: 7858)
Trang Nghiêm Lễ Xuất Gia Của Đội Bóng Bị Mắc Kẹt Trong Hang Động Ở Thái Lan, Các chú bé vừa được cứu thoát khỏi hang động ở Thái Lan đầu tháng này, một sứ mệnh quốc tế thu hút cả thế giới đã xuất gia gieo duyên nhằm tưởng nhớ đến người thợ lặn tình nguyện đã chết trong thử thách đầy đau khổ giải cứu các chú.
30/07/2018(Xem: 8985)
Một vị cư sĩ hỏi vị Sư: - Bạch Thầy cho con hỏi vì sao có người tu thì an lạc, có người tu lại chẳng an lạc? Vị Sư không đáp mà thủng thẳng hỏi: Chẳng hay tâm của Đạo hữu đang an hay chẳng an? Cư sĩ: Bạch thầy tâm con vừa an, vừa bất an. Vị Sư: Cho tôi hỏi đôi điều, Đạo hữu nghĩ sao cứ thẳng thắn mà đáp. Khi nào Đạo hữu thấy an?
28/07/2018(Xem: 6013)
CHÙA NHỎ MIỀN QUÊ Tôi đứng lặng im trước bức thư pháp đề thơ lộng khung kính treo trên vách của ngôi điện im ắng. Thư pháp của chính Thầy trú trì. Thi phẩm bất hủ của Trương Kế, đã được truyền tụng nhiều đời, đưa tiếng chuông của một ngôi chùa ngân vọng giữa thinh không, rung động xuyên suốt cả không gian và thời gian, khiến cho nhân tâm đang lăng xăng phóng túng phải quay về với thinh thinh lắng đọng.
28/07/2018(Xem: 9122)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 7275)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10595)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7800)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8628)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 6098)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]