Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân nào là mùa xuân của ta

13/05/201312:54(Xem: 10122)
Xuân nào là mùa xuân của ta
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Nào Là Mùa Xuân Của Ta

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-6Cứ giáp một vòng 365 ngày, tròn đầy 12 tháng, mọi người lại đón mừng xuân. Không ai bảo ai, nhưng ai nấy cũng đều chan chứa niềm cảm thông đặc biệt, mặc nhiên hiểu biết ý nghĩa xuân tết đến là tròn đầy một năm, là sẽ lại thêm một tuổi, là âm thầm nuôi dưỡng trong tâm tư một niềm hy vọng nhiệm mầu ở năm mới với một tương lai sáng sủa của ngày xuân tết.

Con người vốn dĩ đã sống nhiều với hoài bão, sống nhiều với kỷ niệm. Hoài bão, ước mơ một tương lai sáng sủa, ở đó có hạnh phúc tràn trề bền lâu, với một đời sống thoải mái. Nhưng hoài bão ước mơ thì bao giờ cũng vẫn là ước mơ hoài bão, và chẳng mấy khi có được như ý với hoài bão đó đâu? Do đó, nên chán nản với ước mơ, mỏi mòn với hoài bão, con người lại quay về với những kỷ niệm quá khứ. Nghĩa là, ước mơ tương lai không đạt thành như ý, rồi lại xoay về sống với những kỷ niệm quá khứ bằng ký ức bằng hồi tưởng bằng cách mỹ diệu hóa những kỷ niệm đó, để rồi đưa đến trạng thái tâm lý chán nản với hiện tại, hoài vọng tương lai, nhưng tương lai xa vời, rồi quay về tiếc nuối quá khứ. Rõ ràng thực tế thì tương lai chưa đến và quá khứ đã qua rồi! Bản tánh con người thường là chối bỏ thực tại, chán nản hiện tại, nên phóng tâm tìm về quá khứ và hy vọng tương lai! Cứ thế tâm thức con người bất an xoay chuyển luân hồi quanh quẩn lại qua quá khứ tương lai, tương lai quá khứ như thế mãi không thôi!

Nhưng tại sao con người lại tiếc nuối quá khứ hy vọng tương lai? Bởi tâm lý con người thường là bất mãn với hiện tại, dù là hoàn cảnh hiện tại hạnh phúc! Cổ nhân đã từng nói: “Sống trong hạnh phúc mà không biết hạnh phúc.” Thật vậy, có những người đang sống trong hạnh phúc mà không biết nghĩ mình đang hưởng hạnh phúc. Đầu óc cứ nghĩ nọ muốn kia, không biết thắng cương tham vọng, tâm ý lúc nào cũng loạn động, luôn luôn không vừa lòng. Do vậy, kẻ thức thời biết sống bằng lòng an vui với hiện tại, đối với kẻ tham vọng đáng thương hại nầy thường hay nói: “Đứng núi nầy trông núi nọ” là vậy. Người đã không biết mình đang sống trong hạnh phúc thì làm sao giữ hạnh phúc! Giàu sang phú quý tiền của dư thừa chưa phải là hạnh phúc. Vui sống biết đủ mới thật sự hạnh phúc.

Một thiếu nữ khi còn cái tuổi măng tơ, tâm hồn trong sáng ngây thơ được cha mẹ cưng chiều, anh chị chăm sóc. Ngày ngày cắp sách đến trường được thầy thương bạn mến, nhưng không bao giờ thiếu nữ bằng lòng với cảnh sống hạnh phúc hiện tại đó để lo chuyên tâm học hành để ngày kia nên danh nên phận. Trái lại, có lúc thiếu nữ bất mãn với cảnh sống hiện tại rồi quay ra bực bội thầm than trách phận vì cảm thấy mình không được tự do, cảm thấy mình còn nhỏ bé với cha mẹ anh chị em trong gia đình, cảm thấy mình không có quyền định đoạt, cảm thấy mình không hơn hết các bạn, cảm thấy mình bị lép vế với anh chị em, bị lệ thuộc mẹ cha, cảm thấy mình không được thầy tôn trọng thương chiều khi bài vở yếu kém. Có đủ thứ cảm thấy và đủ thứ bất mãn. Thiếu nữ mơ uớc được lớn, được tự do tự chủ, nên xoay tìm bạn trai và quả thực nơi môi trường mới nầy thiếu nữ được sự chiều chuộng tôn trọng nể vì đặc biệt! Tâm hồn thiếu nữ cảm thấy thoải mái lạ lùng! Thiếu nữ hãnh diện thấy mình lớn hơn, có quyền hơn, có người nghe theo phục tùng nên vui hơn, oai hơn, và lúc nào cũng được nam nhi khen tặng săn đón thuận ý chiều lòng như một người quan trọng trong cõi đời nầy! Thiếu nữ nghĩ rằng, thường ngày gặp nhau chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà lòng cảm thấy an vui phơi phới như vậy. Nếu được sống gần bên nhau với bạn trai chắc sẽ phải được mãi mãi vô cùng hạnh phúc trăm ngàn lần hơn là sống với gia đình cha mẹ anh chị em. Thế rồi nẩy ý sanh tâm thoát ly.

Từ đấy, nơi lòng thiếu nữa đã nẩy nở nguồn vui hạnh phúc với “người dưng khác họ đem lòng nhớ thương.” Từ nhớ thương đưa đến thái độ dứt khoát xa cha mẹ gia đình để sống gần với người bạn khác họ kia với lòng hy vọng hưởng những ngày cưng chiều hạnh phúc bền lâu. Nhưng thực tế thì hạnh phúc nầy quá ư giả tạo ngắn ngủi như bọt nước cầm tay, để rồi tiếp theo sau đó thiếu nữ mất dần đặc tánh hồn nhiên trong trắng và phải sống trong những ngày ràng buộc bất mãn lo âu, sống trong trạng thái suy thường trực đối phó, và từ từ chìm sâu vào phiền lụy buộc ràng ngày càng xiết chặt hơn! Về lâu thiếu nữ thấm mệt chán nản, bất mãn với cuộc sống mới hiện tại nầy. Những ngày tình tứ chiều chuộng đẹp kia phai dần, liền tiếp theo đó sợi dây vô hình buộc ràng xiết chặt càng thêm xiết chặt, lo âu bất mãn càng thêm bất mãn lo âu! Ngày mới gặp nhau có cảm tưởng đắm say tuy hai mà một, nhưng về lâu chung đụng thân gần thì tuy một mà hai! Bây giờ thiếu nữ ngồi hồi tưởnglại tiếc nuối những ngày trẻ thơ đã qua với bao kỷ niệm êm đềm khi còn sống với mẹ cha anh em thầy bạn. Những kỷ niệm quá khứ đã không bao giờ trở lại! Thiếu nữ không dám thật tâm nhìn thẳng vào cuộc sống thực tại, vì thực tại dồn dập bất mãn phũ phàng, nên chỉ còn biết mơ ước một tươnglai êm đềm sáng sủa hơn! Nhưng tương lai hãy còn xa vời trong mơ tưởng chắc gì có hạnh phúc chân thật?!

Tâm thức con người khổ đau vì bất mãn với thực tại. Nguồn gốc của sự bất mãn khổ đau là mơ mộng không tưởng, tham vọng ích kỷ.

Hạnh phúc vĩnh viễn của con người là khi nào con người biết sống tri túc, biết sống từ tốn khiêm nhường, biết nhìn thẳng vào thực tại và sống với thực tại, biết mình biết người. Người biết tri túc thì dù nằm ngủ dưới đất, ở nhà tranh vách lá, ăn cơm hẩm muối dưa sống đời thanh đạm cũng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Người sống biết mình biết người, thì dù là làm đồ đệ, làm người cận vệ, cuộc sống chân lấm tay bùn cũng vẫn hạnh phúc. Phải nhìn thẳng vào thực tại và biết mình là ai, an phận thủ thường thì mới cảm nhận được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có với người biết sống tri túc thường lạc. Đạt đến tâm cảnh này mới thật là mùa xuân an lạc vĩnh viễn.

Ngược lại, kẻ lòng đầy tham vọng ích kỷ chỉ biết mình mà không biết người, đua đòi theo danh lợi ái tình, bôn ba bắt bóng hạnh phúc thì dù có trăm ngàn mùa xuân đến, muôn vạn chim yến lượn, ngàn phương hoa rộn nở, họ cũng vẫn không thấy được mùa xuân, vẫn cảm thấy cõi lòng họ không được an lành, đời họ vẫn không được thanh thản. Bởi tâm ý đầy đặc tham vọng, nên lúc nào cũng tranh hơn sợ thua, lòng họ lúc nào cũng tham muốn làm cha làm vua thiên hạ. Vì tham vọng, nên cõi lòng cuộn trong đất bùn rác bẩn, tâm trí vô minh không còn phân định thị phi thiện ác, mất hết lương tâm liêm sỉ, tự nghĩ mình phải hơn, nên không bao giờ thỏa mãn hiện tại, tiếc nuối những gì đã mất, sợ sệt lo âu những gì sẽ mất. Vì tâm đắm chìm trong tham danh đạt lợi, nên họ phải ngồi bóp trán tính suy mưu thần chước quỷ để phá hủy, để hãm hại người khác, hầu mong được phần hơn về mình. Những tâm hồn như thế lúc nào cũng cảm thấy mùa đông giá buốt, mùa hè nóng bức, và luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu bực tức, uất ức, bất mãn, hận thù. Nghĩa là vĩnh viễn không bao giờ có mùa xuân an lành chân thật với họ.

Với người con Phật phải làm thế nào để có mùa xuân chơn thường an lạc miên viễn?

Mỗi năm vào đêm ba mươi giao thừa, người con Phật cử hành lễ rước vía Di-Lặc, đồng thời cũng là lễ tống cựu nghinh tân. Tống cựu nghinh tân có nghĩa là tống khứ cái cũ, điều thoái hóa, bất hạnh đi, để tiếp đón cái mới, tiến bộ, điều may mắn an vui hạnh phúc đến. Nhưng sự thật trong đời người đã biết bao nhiêu lần tống cựu nghinh tân, đón mừng xuân tết, đã biết bao lần hy vọng mùa xuân mới đến với ước ao được hưởng hòa vui hạnh phúc mà có bao giờ hòa vui hạnh phúc thực sự đến với mình như lòng mong đợi đâu? Thử nhìn kỹ vào chiều sâu thẳm của khổ đau và hạnh phúc, chúng bắt nguồn từ đâu? Phải chăng khổ đau và hạnh phúc đều do chính lòng mình? Như chiếc huy chương có hai bề mặt trái! Phật dạy, tất cả đều do tâm tạo. Không làm nô lệ cho tham dục thì làm gì có sự truy cầu đuổi bắt danh lợi ái ân thất vọng? Mà đã không có truy cầu đuổi bắt theo dục vọng, không ước mong thỏa mãn thì làm gì có khổ đau? Không thấy mình quan trọng giữa cuộc sống xã hội thì làm gì cảm thấy thua thiệt thấp cao? Mà đã không cảm thấy thua thiệt thấp cao thì làm gì có trào dâng nghẹn ngào uất hận, buồn tức khổ sầu bởi tranh giành ganh tị.?

Hình ảnh đức Di-Lặc đã nói lên tinh thần hỷ-xả vị-tha muôn thuở. Hoa xuân hạnh phúc rộn nở cả người Ngài và tỏa khắp cả trần gian. Trong giờ phút linh thiêng trừ tịch tống cựu nghinh tân đón mừng xuân tết, người đệ tử Phật thành kính đối diện trước tượng Ngài cử hành đại lễ giao thừa tống cựu nghinh tân, thử hỏi tận đáy lòng của tâm thức sâu thẳm kia có thật sự chân thành tha thiết lấy tâm từ bi hỷ xả của đức Di-Lặc để bồi dưỡng tâm mình, lấy đức độ bao dung của Ngài làm gương sáng soi lại lòng mình, để hồi quang quán chiếu một năm qua mình đã bao lần lạy Phật, và cho đến ngày giờ trừ tịch giao thừa nầy sẽ nhận thêm một tuổi nữa mà tâm hồn mình đã thực sự có chút nào tiến bộ trong chiều hướng thánh thiện không? Theo dòng thời gian năm tháng, theo lễ tống cựu nghinh tân, nghĩa là bỏ xấu ác để hướng về hào quang lành thiện năm mới, ta đã đích thực quyết tâm tống khứ tham dục ích kỷ nơi lòng, để đón nhận hương hoa xuân tết hỷ xả vị tha từ đức Di-Lặc? Ta đã thật sự tiếp nhận nguồn từ bi hỷ xả bao la nơi Ngài chưa? Nếu chưa tiếp nhận nguồn an lạc trong lành, thì việc cử hành lễ giao thừa rước vía Di-Lặc chỉ là lễ lạy Ngài bằng thân xác áo y, bằgn hương hoa hình thức mà lòng còn đầy ngã-si ngã-kiến ngã-mạn ngã ái, tham sân chấp ngã đầy người, như thế sự lễ bái cũng chỉ là một hình thức tô điểm thêm cho lòng tham vọng tăng trưởng mà thôi, chứ chưa thật sự gột rửa tâm tư thanh tịnh để sống trong hạnh phúc an lành của trời xuân Di-Lặc nơi lòng ta. Nghĩa là ta chưa tỉnh thức, chưa thoát thế lực vô minh của tâm hồn!

Để cho đức hỷ xả Di-Lặc thấm nhuần trong thân tâm, để cho lòng ta rộng mở nở nụ cười hoan hỷ trên đôi môi từ hòa, để cho đời ta được thanh thản giải thoát, ta hãy nhìn vào hình dung đức Di-Lặc, lấy đức tánh Ngài làm gương sáng chiếu tâm, lấy đạo hạnh Ngài làm mực thước hành nghi để gột rửa cõi lòng, điều chỉnh hành vi, ngõ hầu phản tỉnh thanh tịnh nhìn sâu vào đức Phật đương lai Di-Lặc để từ đó tận hưởng mùa xuân tràn đầy hạnh phúc:

Hãy nhìn sâu vào bóng dung Từ phụ
Đôi mắt Ngài cả nguồn biển tình thương
Nụ cười Ngài! Ôi giải thoát không lường
Hồn thanh thoát lạc giữa vườn hoa đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2020(Xem: 6229)
Theo các nhà nghiên cứu về văn hóa lịch sử và khảo cổ học cho biết, những bức bích họa tranh tường màu sắc rực rỡ và tàn tích Phật giáo được khai quật tại Cộng hòa Uzbekistan, một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của Liên bang Xô viết, có niên đại từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3, đã làm sáng tỏ sự hấp dẫn về sự lan tỏa nghệ thuật Phật giáo dọc theo con đường tơ lụa cổ đại.
24/06/2020(Xem: 8862)
Cổ nhân có câu: "sinh, bệnh, lão, tử". Bốn giai đoạn này không ai có thể tránh khỏi. Chuẩn bị ứng phó với bệnh tật và tuổi già của mình và của thân nhân mình là điều ai cũng có dịp nghĩ tới, kể cả chính kẻ viết bài này là tôi cũng đang sắp sửa bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi”. Anh bạn thân của tôi, Bs. TNT từ lâu có đề nghị tôi viết một bài về "Viện Dưỡng Lão" (VDL) để giúp bà con mình có thêm một chút khái niệm về VDL vì anh biết trong suốt 27 năm qua tôi đã liên tục săn sóc cho các cụ già tại các viện dưỡng lão, và cũng đã là "Giám Đốc Y Tế" (Medical Director) của nhiều VDL trong vùng. Nay tôi muốn chia sẻ cùng qúy bạn một số kinh nghiệm và hiểu biết về VDL.
22/06/2020(Xem: 7946)
Truyện tích kể rằng sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp ở các làng mạc, Đức Phật trở về tịnh xá, và giữa chúng Tăng có cuộc thảo luận về trạng thái gồ ghề hay bằng phẳng của các con đường đã trải qua. Đức Phật nói rằng thảo luận về các con đường ấy không thích hợp cho sự giải thoát, đó chỉ là những đoạn đường ở bên ngoài thân tâm. Ngài khuyên chư Tăng nên lưu tâm đến con đường cao thượng là “Bát Chánh Đạo” thuộc giáo lý “Tứ Diệu Đế” và những việc cần phải làm khác để sớm đắc được đạo quả. Những giáo lý căn bản của Đạo Phật đưọc tóm tắt như sau đây:
20/06/2020(Xem: 8750)
Hai sự phân biệt được giới thiệu mà trước đây không được nêu rõ trong tài liệu về lòng bi mẫn, điều này có thể làm rõ những gì đang được nghiên cứu và khuyến khích sự chú ý đến các hình thức bi mẫn đã bị bỏ qua phần lớn. Sự khác biệt đầu tiên là liệu mục tiêu của hành vi bi mẫn là gần (ví dụ, nhìn thấy ai đó ngã xuống, trầy xước đầu gối của mình) hoặc xa (ví dụ, một người không quan sát trực tiếp ai có thể bị thương hiện tại hoặc trong tương lai). Gần là ngay lập tức, khắc phục nếu có thể cho những đau khổ chứng kiến; xa ngăn ngừa tác hại trong tương lai xảy ra. Nhóm phân biệt thứ hai đề cập đến việc lòng bi mẫn là sự thấu cảm, liên quan đến hành động hay là một khát vọng.
19/06/2020(Xem: 13679)
Tặng quà cho 285 hộ nghèo Ấn Độ ở 2 ngôi làng Katorwa-Mucharim (gần chùa Kiều Đàm Di VN- Bodhgaya) địa điểm cách Bồ Đề Đạo Tràng nơi đức Phật thành Đạo 7 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree cho phụ nữ, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200 Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD. (Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác.)
17/06/2020(Xem: 9953)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
17/06/2020(Xem: 6319)
Thật là một điều trùng hợp khi vừa đọc xong bài viết của Ôn Hội Chủ HT Thích Bảo Lạc được đăng tải trên trangnhaquangduc vào ngày 05/04/2020 là lúc tôi đang ôn lại hết những gì về Duy Thức Học và Vi Diệu Pháp vì thật ra khi đọc kinh sách của Nam Tông và Bắc Tông tôi đã tự nhận thấy Chữ Tâm luôn là đề tài mà người tu học phải tự điều phục và do đó lần nữa Chữ Tâm đã được gặp lại trong pháp môn này nhưng thêm vào chút thâm thuý sâu sắc khi được khảo sát qua ba tiến trình ( THỂ- TƯỚNG - DỤNG ) mà biểu hiện là Ý , THỨC , TÂM .
16/06/2020(Xem: 7087)
Tiến sĩ B. Alan Wallace, học giả, cư sĩ diễn thuyết, tuyên dương diệu pháp Như Lai, đã viết và dịch nhiều sách Phật giáo Tây Tạng. Ông không ngừng tìm kiếm các phương thức mới để hòa nhập việc tu tập Phật pháp với khoa học hiện đại và hậu thuẫn cho các nghiên cứu về tâm thức. Ông đã thực hành Phật giáo từ thập niên 1970, đã giảng dạy lý thuyết và hướng dẫn tu tập thiền định Phật giáo trên toàn thế giới từ năm 1076. Ông đã dành 14 năm sống trong chốn thiền môn với cuơng vị một tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng và phúc duyên được Đức Đạt Lai Lạt Ma thế độ xuất gia.
16/06/2020(Xem: 6218)
Dharamshala, ngày 9/6/2020: Ngài Khensur Geshe Tashi Tesering, một vị tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng nổi tiếng cư trú tại Queensland, Australia, cựu trụ trì Tu viện Gyudmey, nằm trong Danh sách Danh dự Sinh nhật Nữ hoàng 2020 vào hôm thứ Hai, ngày 8 tháng 6 năm 2020.
13/06/2020(Xem: 9911)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Nhưng chết rồi cũng chưa hết khổ. Vì tâm thức của con ngườisẽ bị nghiệp lực dẫn đi tái sanh. Nếu đời sốnghiện tại, con người biết tu hành, làm việc thiện lành tránh việc hung ác, thường tạo nhiều phước báo, thì khi chết được tái sanh làm người. Ngược lại sống ở đời với tâm địa ác độc, xấu xa, luôn gây phiền não khổ đau cho người khác,thì sau khi chết bị đọa vào một trong ba đường khổ: súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Và cứ thế hết đời này qua đời khác, chúng sanh cứ như vậy chịu trôi lăn, lặn ngụp, đắm chìm trong bể khổ đường mê, không bao giờ thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]