Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cho Trọn Mùa Xuân

13/05/201312:51(Xem: 10007)
Cho Trọn Mùa Xuân
Cho Trọn Mùa Xuân


Cho Trọn Mùa Xuân

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-8Xuân tết là ngày quan trọng và thân thiết đối với mọi người, dù người đó đang ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Kỳ gian xuân tết mỗi nơi mỗi khác, nhưng hễ mỗi lần xuân tết là báo hiệu ngày mở đầu năm mới, người người đều cảm thấy nơi lòng sống dậy niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc sáng sủa và may mắn tốt lành hơn năm cũ.

Xuân mang ý nghĩa tăng trưởng nguồn sống cho vạn loại sanh linh. Xuân mang lại nguồn sống của vạn vật đâm chồi nẩy lộc tốt tươi như thế nào, thì ngày đầu năm xuân tết người ta cũng vui vẻ chúc cho nhau những điều lành tốt như thế ấy. Trong những ngày xuân tết, người ta hết sức kiêng cữ lời nói, cố tránh việc làm không hay đẹp. Người ta thường trao tặng cho nhau những món quà xinh tốt với nụ cười lời chúc “hạnh phúc, may mắn, tăng thọ, phát tài, phát lợi, bình an.”

Ngày xuân tết, chúng ta còn thấy giấy đỏ, chữ vàng dán trước cửa nhà với những câu chúc tết như: “Địa cửu, Thiên trường” - “Phước như đông hải, thọ như nam sơn” - “Vạn sự cát tường như ý”- “Tài lộc như thủy nhập môn” v.v…Đủ những lời hay ý đẹp để nói lên ý nghĩa hy vọng an lành cầu chúc cho nhau được may mắn hạnh phúc trường cửu trong ngày đầu năm mới. Nhưng có một điều chúng ta không thấy chúc cho nhau đó là: “Năm mới cố gắng tinh tấn làm lành, tu tâm sửa tánh hơn.” Lời chúc nầy đích thực là căn bản sản sanh hạnh phúc chơn thường, con người sẽ có tương lai sáng lạn huy hoàng trường cửu, ấy thế mà người ta lại quên! Chính vì quên, thiếu hay không để ý hoặc xem thường việc tu bồi phước đức, sửa tánh tu tâm nên không khuyến khích chúc cho nhau tinh tấn hướng về nẻo thiện, trong năm mới. Do đó mà những lời chúc tụng tốt lành trên kia trở thành thói quen, tập tục, nếu không muốn nói là những lời sáo ngữ, không thực tế chút nào. Vì sao?

Bởi vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” “Người trồng cây hạnh người chơi, ta trồng cây phúc để đời về sau.” Vậy thì may mắn hạnh phúc là do ngoại cảnh hay nội tâm? Không tu tâm sửa tánh, tức là tâm không tu, tánh không sửa, không lo làm việc lành thiện, chỉ biết mải mê tham danh đoạt lợi ích kỷ đố kỵ, thị phi hơn thua thì làm sao có phước như đông hải? Không biết bố thí, trì giới, phóng sanh, thực hành theo tâm hạnh nhân đức từ hòa của thánh hiền, chỉ biết chạy theo tham sân danh lợi trần tục thì làm sao được tuổi thọ như nam sơn? Chúng ta muốn được phước lộc thọ, địa cửu thiên trường mà chúng ta không nhiệt tình làm phước, không tu tâm sửa tánh, không khởi tâm lành thiện nhẫn nhục khiêm tốn, không cố gắng vun bồi phước đức thì làm sao có được phước lộc thọ? Phước lộc thọ, an vui may mắn hạnh phúc không phải do tranh danh đoạt lợi mà có được, mà phải chính do nội tâm của chúng ta tạo nên bằng gắng công tu phước bồi đức. Không có tu tâm sửa tánh hành thiện thì nhất định không thể nào có được phước lộc thọ và rất ít có được những phút giây tâm hồn định tĩnh thanh thản vui tươi thưởng xuân, dù đang sống trong lâu đài tiền kho bạc biển, trong mùa xuân bướm lượn hoa cười, áo mới pháo nổ cũng vẫn thấy lo âu sầu khổ trong mùa xuân. Thế nên cổ đức nói: “Tâm xuân vũ trụ đều xuân. Tâm buồn thế giới đâu đâu cũng buồn” là vậy.

Đời nay có người không tu tâm, không làm phước mà được giàu có, điều đó cũng không phải là tự nhiên. Nên biết rằng, tất cả sự việc trên đời không ngoài nhân quả. Người kia đời nay bất lương không tu tâm làm lành mà lại được giàu có, thì đó là họ hưởng phước lành đời trước họ đã tạo. Còn đời nầy họ làm điều bất thiện thì sẽ chịu quả báo hoặc cuối đời nầy hay đời sau. Gia đình cụ Ngô-Đình-Diệm chẳng đáng để cho chúng ta suy gẫm đó sao? Luật nhân quả công bằng nào có đổi thay, như lưới trời lồng lộng nhìn không thấy, nhưng không sai chạy, không sót lọt mảy lông. Kinh Nhân-Quả nói:

Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Dục tri lai thế quả
Kim sanh tác giả thị

Nghĩa là:
Muốn biết nhân đời trước
Nên xem đòi sống họ ngày nay
Muốn biết quả đời sau
Cứ xem việc họ làm ngay nay.

Không biết tu tâm sửa tánh tạo phước đức thì lẽ tất nhiên không thể nào có may mắn, hạnh phúc, phát tài, hưởng lộc bền lâu. Cũng như không chịu khó bới đất trồng cây, không ra công gắng sức săn sóc bón phân, tưới nước thì không làm sao có được cây tươi, hoa đẹp, trái tốt để thưởng thức? Không chịu khó cố gắng học hành thì làm sao thành danh với bằng cấp sự nghiệp? Không chịu khó đọc kinh sách nghiên tầm học hỏi lời dạy của các bậc cổ đức thì làm sao thấu hiểu được triết lý ở đời, lời dạy thâm thúy của thánh hiền? Không gắng gổ tu tâm bồi đức bồi phước mà muốn được giàu sang hạnh phúc là người đánh bạc muốn làm phú ông, là kẻ nông phu không cần mẫn với ruộng vườn, là học sinh không đến trường vào lớp mà muốn được đỗ đạt bằng cấp.

Bởi thế, chỉ biết chúc cho nhau phát tài, đắc lợi, sống lâu, hạnh phúc bằng những lời sáo ngữ “đông hải, nam sơn” v.v… mà không chúc cho nhau tinh tấn cố gắng “tu tâm sửa tánh, vun bồi phước đức” hơn năm cũ là điều thiếu sót lớn lao. Điều quan trọng là để xây dựng hạnh phúc mà không lưu tâm làm phước tu đức thì bảo sao suốt năm chẳng lận đận, bất hạnh nhiều hơn là vạn hạnh? Chẳng khác nào kẻ suốt năm chẳng đi chùa lạy Phật nghe kinh, chẳng chịu làm lành làm phước tu tâm sửa tánh, mà chỉ đầu năm đến chùa xin xăm cầu hên, cầu vận mạng tốt là điều mơ mộng. Có kẻ sống trong hơn thua chụp giựt, suốt tháng năm chạy đôn chạy đáo chụp bắt danh nọ lợi kia, đến khi chạm trán với điều bất hạnh thì xin xăm bói quẻ cầu thần khấn trời ban phưóc! Người đời thường bỏ gốc lấy ngọn, quên sửa tâm tánh mà chỉ nhớ lợi danh! Vì thế cho dù đầu năm chúc nhau bằng những lời tốt lành, mà suốt năm vẫn phải nhận lãnh những điều bất hạnh, phiền muộn, bất như ý, nguyên nhân sâu xa từ đấy.

Lại còn có những người suốt năm chẳng biết tu tâm làm phước, đến ngày mùng một Tết hoặc rằm tháng Giêng vội vã đến chùa lạy Phật cầu được may mắn, vạn sự như ý! Chưa đủ, họ còn chạy đến các đền miếu để khấn cầu ông thần nầy, bà chúa nọ phù hộ, xin xăm bói quẻ cầu vận mạng năm mới được tốt lành như ý! Họ quên đi câu nói của ông bà chúng ta đã dạy: “Có phước đức mặc sức mà ăn.” Các bậc thánh hiền đã từng khuyên người đời: “Phước túc mạng” – “Đức thắng số.” Phước túc mạng nghĩa là mình biết làm điều lành thiện, bố thí, giúp người nghèo đói, cứu trẻ cô nhi thì đời sống của mình sẽ được đầy đủ sung túc thoải mái suốt đời. Đức thắng số có nghĩa là mình biết trì trai giữ giới, tu tâm sửa tánh làm lành, biết nhẫn nhục tha thứ thì tai ương hoạn nạn sẽ đưọc tiêu trừ, mạng sống cũng theo đó được lâu dài an lành hạnh phúc.

Đạo Phật dạy, muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói để được giàu sang, có chức phận địa vị thì cần bố thí, cúng dường, đó là tạo nhân “phước.” Muốn có trí huệ để thoát khỏi ngu dốt, đạt lý thông minh, được người đời kính trọng nể vì cung phụng thì nên trì giới tu tâm sửa tánh, đó là tạo cái nhân “lộc.” Muốn được mạnh khỏe sống lâu đời đời hưởng hạnh phúc với con cháu thì nên nhẫn nhục, nuôi dưỡng tâm từ bi thương người thương vật, biết sống trong tinh thần vị tha hỷ xả, chẳng những không sát sanh hại vật, mà còn phải bảo hộ mạng sống, phóng sanh, đó là tạo nhân “thọ.” Như thế, phước lộc thọ do chính mình tạo ra, do bên trong tâm tu dưỡng hình thành và bên ngoài thân làm lành thiện lợi tha tránh điều ác, tất cả đều do chính mình tạo phước lộc thọ mình hưởng, chứ không phải cầu thần thánh nào ban cho cả.

Cứ chân thành tu tâm sửa tánh làm lành lánh dữ, trì trai giới hạnh, biết sống đời tri túc, tập sống hạnh nhẫn nhục lợi tha, dẹp bỏ ngã mạn, diệt trừ ích kỷ hờn giận thì chắc chắn sẽ được hưởng phước lộc thọ. Nếu không lưu tâm để ý đến điều quan trọng tu bồi phước đức mà chỉ cầu chúc suông thôi, thì đó là lời cầu chúc xáo ngữ, trống rỗng vô nghĩa, điều hy vọng hạnh phúc may mắn năm mới chỉ là hão huyền mà thôi. Dù có tiền tài danh vọng mà không biết tu tâm sửa tánh thì bất quá cũng chỉ duy trì tiền tài danh vọng ấy trong tình trạng mong manh hồi hộp, lắm khi còn phải sống trong tủi nhục bất an vì tiền bạc do thất đức mà có đó nữa là khác.

Xuân trong nhà Phật không phải chỉ vui khi xuân đến hoa nở và buồn khi xuân đi hoa tàn. Xuân của người tu học Phật không phải xuân đến vui rộn với tiếng pháo nổ ran, xuân đi buồn tiếc với xác pháo ngập tràn đầu đường cuối ngõ. Xuân của người tu hiểu đạo Phật không chúc nhau “Phước như đông hải, thọ như nam sơn” – “Phát tài phát lợi bình an,”mà chúc cho nhau “năm mới tinh tấn tu hành hơn năm cũ.” “Năm mới phát tâm Bồ-đề, phát nguyện tinh tấn tu học.” Vì có thật tâm tinh tấn tu học thì mới tiêu trừ ác nghiệp, tiêu tai giải hạn, mọi việc được hanh thông như ý.

Người chân chánh tu học Phật nhờ trì trai giữ giới, giữ gìn ba nghiệp thân miệng ý không tạo ác, cố gắng hành thiện, chuyên cần gột rửa tâm tánh được thanh tịnh, nên lúc nào cũng hưởng xuân tràn ngập nơi lòng. Thân tâm thanh tịnh, phiền não sạch trong, ấy là hạnh phúc là phước lộc thọ. Xuân hạnh phúc phước lộc thọ của thế gian nếu thật có, cũng chỉ hạn cuộc theo thời tiết tháng năm, vì con tham, sân, si, mạn, nghi, phân biệt, ích kỷ. Còn xuân hạnh phúc phước lộc thọ của nhà Phật vượt ngoài thời gian tháng năm, vì lúc nào thân tâm cũng thanh tịnh, cõi lòng hỷ xả buông thả sự đời không dính mắc lợi danh, nên không bị buộc ràng theo cảnh đắc thất thịnh suy, vinh nhục, tham sân, chấp ngã. Không có mùa xuân nào an lạc hạnh phúc lâu bền bằng mùa xuân thân tâm thanh tịnh. Do đó, cổ đức tiên hiền đã nói: “Tâm an lý đắc” – “An bần lạc đạo” – “Sớm hiểu đạo, chiều chết cũng vui.” Đấy là tâm xuân khắp vũ trụ đều xuân.

Người đời cầu trường thọ. Nhưng trường thọ mà không thức tỉnh tu tâm thì đâu có biết trường thọ là nhân của khổ. Vì tuổi đời càng chồng chất mà không hiểu đạo, không biết tu tâm sửa tánh hành thiện, thì tội lỗi càng chồng chất theo tuổi thọ đó thôi. Nên cổ đức đã nhắc nhở “đa thọ đa nhục,” là ý nghĩa nầy vậy.

Trái lại, tuổi thọ trong nhà Phật không phải tính theo năm tháng chất chồng như thế gian, mà tính theo giới hạnh hạ lạp. Nghĩa là tính theo sự thọ giới hành đạo, an cư kiết hạ. Người càng hành trì giới luật nghiêm túc lâu năm thì được tuổi đạo càng cao. Phật pháp theo đó càng bền lâu phát triển. Thọ trì giới luật không phải chỉ riêng hàng xuất gia, mà Phật tử tại gia muốn thăng hoa hạnh phúc bản thân, gia đình và tiến nhanh trên đường giác ngộ giải thoát cũng phải khởi đi từ sự nghiêm trì giới luật, phát tâm Bồ-đề.

Ngược lại, dù tuổi đời có đến trăm năm mà không có tuổi đạo, thì cũng vẫn là kẻ tầm thường phàm tục. Dù tuổi đời có đến hơn trăm mà mới biết đạo, mới học hiểu đạo chỉ được vài ba năm thì vẫn là kẻ sơ cơ. Người như thế tuổi đạo chưa vào đâu. Đặc biệt, điều đáng lưu tâm hơn nữa là, dù là ấu niên xuất gia, thọ giới lâu năm mà giới hạnh không tinh nghiêm, đạo hạnh yếu kém, tâm hạnh không thanh tịnh thì Phật gọi đó là kẻ lạm xưng tăng bảo, thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Trong Giới kinh gọi người đó là: “Thân tuy hành đạo mà tâm đạo chẳng hành.”

Xuân đạo hạnh là xuân hạnh phúc chân thật vĩnh viễn chỉ có ở những tâm hồn thanh tịnh hỷ xả. Nếu tâm còn dính mắc hơn thua, nhân ngã, lợi danh, chức tước, quyền hành, hình thức thì không bao giờ hưởng được mùa xuân vạn hạnh, thanh thoát, mà chỉ tự mãn với xuân phiền não, xuân giả tạo, vui với huyễn ảo hoàn cảnh bên ngoài.

Với ý nghĩa trên đây, nay ngày đầu năm xuân tết, tôi xin chúc tất cả mọi người thân tâm thanh tịnh, trọn hưởng mùa xuân vạn hạnh. Chúc quý vị thân tâm thanh tịnh để trọn hưởng nhạc xuân muôn điệu, hoa xuân rộn nở muôn màu, ánh xuân rạng chiếu khắp muôn phương, hồn xuân tràn ngập đất trời hòa cùng vũ trụ, chan hòa cõi lòng tự tại thanh thoát. Ấy mới thật trọn hưởng mùa xuân: “Tâm xuân vũ trụ đều xuân.” Như Trần-Nhân-Tông nói:

“Trăng sáng đầy chân tâm
Tâm xuân rạng rỡ cõi lòng
Tình xuân hoa nở ngát thơm hương thiền.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5078)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4097)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4692)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4153)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3599)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6954)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5051)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]