Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân Ly Hương

13/05/201312:46(Xem: 10596)
Xuân Ly Hương
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Ly Hương

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-1Xuân lại về. Xuân về khắp vạn vật. Xuân đến trong lòng người. Ngày xưa mỗi lần nghe nói đến xuân tết, nhìn cây cảnh đâm chồi nẩy lộc xanh tươi thì biết đó là hiện tượng của xuân đến. Ngày xưa, mỗi lần xuân đến, tôi cảm nghe nơi lòng tôi, lòng mọi người rộn ràng rạo rực, như hòa điệu với sức sống của vạn vật, đang vương mình nhảy múa tươi cười trong ánh nắng xuân mai. Nhưng thật lạ thay, nay xuân đã về trên quả đất mà lòng tôi vẫn thản nhiên, nhìn xung quanh tôi, cỏ cây hoa lá vàng úa trơ cành, để lộ trạng thái khô khan không mang tính chất nào của xuân tết như những ngày còn sống trên quê hương!

Quê tôi, đêm giao thừa tiếng pháo nổ vang, trước sân mỗi nhà có dựng nêu cao treo đèn lồng tỏa ánh sáng mông lung, thật là linh thiêng huyền ảo vào đêm trừ tịch. Trẻ già trai gái hân hoan trong bộ áo quần mới, miệng nở nụ cười hồn nhiên chúc mừng cho nhau may mắn đầu năm. Đó đây mọi ngả đường, từng đoàn người đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân. Lớp lớp người thành kính quì trước Phật đài, dưới làn hương quyện tỏa, hòa với tiếng chuông ngân nga mang lòng thành kính nguyện cầu lan rộng xa khắp mười phương. Bà con ai nấy đều thấy ấm lòng trong niềm hy vọng năm mới may mắn sáng sủa hơn.

Nhưng ở nơi đây, nơi đất khách quê người này, mọi người cũng nói đến ngày xuân, cũng sắm vội sơ sài vài món quà lễ tết. Nhưng khí đất, tiếng người khô khan trong dáng điệu hấp tấp vội vàng, làm cho tôi cảm thấy bàng hoàng nín thở, khiến cho lòng tôi lại càng thiết tha tưởng nhớ đến quê hương lạ lùng! Nỗi lòng thiết tha này tôi chưa từng cảm thấy khi tôi còn sống trên quê hương trong những lần xuân tết đến. Mà giờ đây, nơi quê người đất khách xứ Cali này, tôi ngồi nhìn sông, sông cạn; nhìn núi, núi khô cằn! Tôi nhìn người, đâu đâu cũng biểu lộ vẻ vô tình! Tôi trông ra bốn bề để tìm kỷ niệm hình bóng những mùa xuân năm xưa, tìm mãi khắp khắp xung quanh cảnh vật mà vẫn không thấy một bóng hình kỷ niệm thân thương, vẫn vắng bặt nguồn ấm sưởi lòng của thuở còn ở quê hương đất mẹ! Phải chăng những hình ảnh khô khan vô tình kia đã ngầm gợi lên cái ý nghĩa thương tình cho kẻ xấu số sống tha hương? Kẻ tha hương là kẻ sống nương nhờ nơi đất khách, mà trong mỗi người vẫn chan chứa nơi lòng một quá khứ quê hương thân thương! Ở đó là nơi chôn nhau cắt rún với bao kỷ niệm mà giờ đây thân còn sống gửi quê người, ngày về nơi đất mẹ vẫn còn xa vời vô định.

Tuy đang sống giữa chốn phồn hoa đô hội ở cái xứ văn minh vật chất nhất của nhân loại này, nhưng lúc nào tôi cũng cảm thấy cô lạnh lẻ loi như đàn chim bắc cực lạc loài đang bay tìm tổ ấm mùa đông.

Xuân đã mấy lần về trên đất khách rồi. Vậy thì người Việt tỵ nạn tha hương bao giờ mới được trở lại đất mẹ để an cư lạc nghiệp? Ngưỡng mặt nhìn khoảng trời cao lồng lộng, tôi đã xin hỏi những Đấng cao thâm không biết mấy lần rồi mà sao các đấng ấy vẫn âm thầm lặng thinh! Quỳ gối hỏi Thượng-đế, Thượng-đế vẫn vô tình không một lời giải đáp! Người ta bảo Thượng-đế là đấng thần linh toàn năng sanh ra vạn loại và an bài trần gian. Vậy thì dân tộc Việt-Nam có tội tình gì mà suốt đời vẫn phải bị khốn đốn tang thương? Hết bị Tàu thống trị thì đến bị Tây đô hộ. Hết bị Nhật đổ bộ áp đảo thì đến Hồ-Chí-Minh gây tang tóc. Hết độc tài Ngô-Đình-Diệm, lại đến quân phiệt Nguyễn-Văn-Thiệu cứ liên tục múa rối như thế để rồi ngày nay lại bị Hồ-Chí-Minh và đồ đảng sùng bái chủ thuyết phi nhân cam tâm tình nguyện làm vong nô cho chủ nghĩa cộng sản vô thần gian ác tàn hại dân tộc Việt-Nam. Sao cứ thế dày xéo quê hương dân tộc tôi tan nát, đất nước phải chia đôi, nồi da xáo thịt lẫn nhau hằng chục năm tạo nên cảnh cốt nhục tương tàn, quê hương triền miên bom đạn, dân lành chết chóc đói nghèo. Và cho mãi đến giờ phút này, dân tộc tôi vẫn còn chìm đắm trong đêm thâu mịt mù của khói lửa chiến chinh, mặc tình cho loài thú dữ vô thần quỷ đỏ tung hoành cấu xé làm tan nát văn hóa đạo đức ngàn xưa. Thời xưa Việt gian Pháp thuộc thì thờ Tây. Ngày nay độc lập tự do hạnh phúc bằng chủ nghĩa cộng sản thì thờ Lê-Nin. Mao-Trạch-Đông tôn sùng cao hơn cả ông cha và đưa dân đi các nước gọi là anh em làm nô lệ để trà nợ! Điều tủi nhục khổ đau có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt-Nam! Nòi giống rồng tiên sao lại bị oan khiên nghiệp chướng gì lạ lùng như thế?!

Hỡi những đấng thần linh thượng đế, xin cho một lời giải đáp sáng tỏ về dân tộc và quê hương tôi, rằng đã làm nên những tội tình gì mà đến nỗi liên miên từ thế hệ này đến thế hệ khác phải chịu cực hình thống khổ đến giờ nầy vẫn chưa thôi? Nếu dân tộc tôi thật có tội, thì tội gì, sao không cho biết để được đoái công chuộc tội? Để cho thế hệ con cháu chúng tôi được yên thân, quốc gia chúng tôi có được những ngày thái bình, không còn cảnh sanh ly tử biệt: để dân tộc tôi còn thể diện sống dưới ánh sáng mặt trời giữa cộng đồng nhân loại văn minh? Nếu bảo rằng vì không tu theo Thượng-đế nên bị phạt, thì có các dân tộc đã nghe sùng tín bái phục theo Thượng-đế mà cũng vẫn bị ngặt nghèo chiến tranh thảm khống hằng thế kỷ đó, thì sao? Thượng đế ở đâu? Ngài có thật không, hay chỉ do tưởng tượng? Nếu có thật sao nỡ làm ngơ trước cảnh đau thương của con cháu do chính Ngài tạo ra? Toàn năng toàn trí toàn đức của Thượng đế để đâu, sao không đem ra an bài cho thế giới nhân loại hòa bình, cho người thương người, để tránh cho con cháu Ngài giết hại nhau, cho dân tộc Việt-Nam được thảnh thơi đôi chút? Ngài tạo ra nhân loại làm gì để chém giết nhau mà Ngài vẫn làm thinh, hỡi Thượng-đế?

Nhớ thời lập quốc, đất nước tôi còn nhỏ bé, dân tôi còn thưa thớt, thế mà tổ tiên tôi đã giữ được độc lập tự chủ “Nam-Quốc Sơn-Hà Nam Đế-Cư-Nước Việt-Nam do vua Việt-Nam ngự trị.” Độc lập vững bền đến gần 400 năm, hiên ngang phát triển bên cạnh một đế quốc Trung-Hoa to lớn gấp trăm lần hơn, lúc nào cũng có dã tâm hầm hừ muốn ăn tươi nuốt sống lãnh thổ Việt-Nam chúng tôi. Nhưng rồi họ đã phải nể vì. Ông cha chúng tôi dựng nước và giữ nước, chẳng những độc lập về dân tộc chủ quyền, mà cả đến nền văn hóa học thuật tư tưởng ở thời Lê, Lý, Trần có lúc đã sánh bằng với những thời đại văn hóa sáng chói nhất của Trung-Hoa ở vào những thời Đường, Tống. Việt-Nam ở vào thời đại Lê, Lý, Trần, dân tôi thái bình thịnh vượng, văn hóa, đạo đức, học thuật, tư tưởng, kinh tế, cực thịnh và không ngừng mở mang bờ cõi. Đó là những thời thoải mái huy hoàng nhất của dân tộc Việt-Nam, cũng là thời đại được ánh sáng Phật giáo soi sáng dẫn đạo quốc gia dân tộc hướng lên độc lập vinh quang.

Nhờ đâu mà thời Lê, Lý, Trần lại được như vậy? Và nhờ đâu mà thời đại đó lại có nhiều bực anh hùng dũng lược đủ đức Bi, Trí, Dũng siêu quần bạt tụy như Đinh-Bộ-Lĩnh, Lê-Đại-Hành, Lý-Công-Uẩn, Lý-Thường-Kiệt, Trần-Hưng-Đạo, Trần-Quốc-Toản v.v. đã Bắc phạt Tống, Nam bình Chiêm, đua dân tộc và đất nước đến chỗ vinh quang vô tiền khoáng hậu như thế? Điều này không có gì khó hiểu cả. Bởi các vua lúc bấy giờ phần nhiều do các bậc thiền đức chốn thiền môn dạy dỗ hướng dẫn bằng giáo lý của đạo Phật là vô ngã vị tha, bình đẳng từ bi hỷ xả. Tinh thần của đạo Phật là phụng sự chúng sanh tức là cúng dường chư Phật. Do các vua thấm nhần tư tưởng nhân bản đạo đức, dùng đức trị quốc an dân, nên làm cho đất nước độc lập thạnh trị, dân tộc an cư lạc nghiệp.

Ngoài ra, các vua còn thỉnh mời các thiền đức cao tăng làm cố vấn cho nhà vua trong việc trị nước an dân và giúp đỡ triều đình đảm nhiệm việc giáo dục quốc dân. Thiền tăng vốn là những người uyên bác Nho học và Phật học với cõi lòng buông xả không dính mắc quyền danh lợi dưỡng tình trường. Các ngài đem tinh thần từ bi vị tha tế thế thương nước thương dân, phục vụ. Lấy tư tưởng vị tha, vô ngã, vô úy, hỷ xả, thành tín, ái quốc, yêu dân không danh không lợi làm giáo khoa giảng dạy, gieo sâu tinh thần từ bi vị tha vào tâm trí học trò. Sách vở và lời dạy của các bậc thầy thời đó mang tính chất tinh thuần nhân bản, hướng con người đến nhân cách quân tử xả kỷ vị tha, tình thương đùm bọc, trong niềm tin từ bi nhân nghĩa và trí huệ vô ngã, để xây dựng cho nhau một cuộc đời an lạc. Tinh thần đó được thể hiện như sách Đại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư có ghi: “Một hôm trời đông giá rét, vua Lý-Thánh-Tông ngự triều. Động-Thiên công chúa hầu bên cạnh. Đang giữa bá quan văn võ đại thần, nhà vua xoay lại nói với công-chúa rằng : Ta ở trong cung điện mặc áo lông cừu mà còn lạnh như thế này. Những tội nhân trong ngục thiếu áo cơm chắc là đói lạnh lắm. Trẫm nghĩ mà thương cho họ lỡ ngu dại làm điều phạm pháp phải chịu ngục hình. Vậy con nên đem chăn chiếu và thức ăn cho họ. Rồi ngài xoay lại phán với các đại thần rằng: “Trẫm thiết nghĩ các khanh nên xem xét lại những người tội trạng nhẹ thì nên tha để cho họ được về đoàn tụ với gia đình.” Nhờ có tinh thần đức độ, vị tha của nhà lãnh đạo quốc gia tỏa ra sáng ngời, và nhờ trí tuệ vô vị lợi, nên thế hệ thanh niên thời đó được giáo dục, hướng dẫn và được thấm nhuần trong tinh thần bi, trí, dũng. Thế hệ trẻ của thời đó được huấn đào nung đúc trong tinh thần hào khí đạo đức, xả kỷ vị tha, nhờ đó mà tạo thành thế hệ có tư tưởng độc lập tự chủ của dân tộc. Nên tất cả tinh thần năng lực và tư tưởng của người dân Việt thời đó đều hướng về phục vụ cho dân tộc xứ sở chớ không vong bản vọng ngoại. Nhờ vậy đất nước Việt-Nam có được thời đại anh hùng dân tộc sáng giá, giữ được độc lập tự chủ, hào quang độc lập tự chủ của các thời Lê, Lý, Trần rạng ngời mãi đến nay.

Ông cha chúng ta sanh ra và sống trong hoàn cảnh khó khăn gấp trăm lần chúng ta. Thế mà các ngài biết dựa vào tiềm năng nhân bản và niềm tin đạo đức truyền thống của dân tộc để phục vụ quê hương xứ sở. Còn ngày nay bậc đàn anh của chúng ta được ngoại quốc giúp đỡ, được gửi đi học Tây học Mỹ, mà không biết đem khả năng học vấn để khai thác tiềm năng sẵn có của dân tộc để phục vụ đại nghĩa dân tộc quê hương. Ngược lại đem tư kiến hạn hẹp địa phương kết bè lập đảng nghe lời xúi xử ngoại bang tranh giành quyền lợi tư kỷ, làm tan hoang tinh thần đoàn kết của dân tộc! Độc hại hơn nữa, cuồng tín theo ngoại giáo, dựa thế lực ngoại bang phục vụ cho văn hóa tư tưởng vong nô gây nên tang thương chia rẽ dân tộc. Thậm chí còn làm bồi bút vu khống mạ lỵ những người có tâm huyết nhiệt tình đem hết mình phụng sự đại nghĩa văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc và quê hương. Việc làm của họ đều theo ngoại bang xúi xử! Rõ ràng gần đây nhất như Hồ-Chí-Minh và đổ đảng, Ngô-Đình-Diệm và đám cuồng tín đã gây ung thối cho cả xã hội và tầng lớp tuổi trẻ, đầu độc mầm non của dân tộc. Hậu quả tai hại không lường, để rồi đưa đất nước và dân tộc đến đường cùng rách nát tang thương nghi kỵ chia rẽ như ngày hôm nay!

Khổ thay cho đến giờ này, bỏ nước ra đi, đem thân sống nhờ đất khách quê người mà vẫn còn chưa kịp thời tỉnh ngộ, để tự xót thương cho thân phận chính mình, và cảm thông dân tộc giống nòi để đùm bọc lấy nhau, để cùng nỗ lực vươn lên trong cộng đồng nhân loại. Trái lại, vẫn thói nào tật nấy, ngoan cố tự hào ta đây trí thức anh hùng, kết bè lập nhóm dùng nghề bồi bút to mồm để phục vụ tư tưởng vong bản phi nhân, bằng dùng hết tán tận lương tâm đạo đức và tình người, đến độ phun ra những văn từ luận điệu của tâm địa ác thú độc trùng truyền nhiễm, làm cho tuổi trẻ nghi ngờ, quần chúng hoang mang, niềm tin phá sản, chia rẽ ly tán đến cùng cực. Vì đâu? Vì vong bản, cuồng tín ngoại lai mà gây nên tai hại cho cả dân tộc.

Chẳng những đã không đoàn kết mà còn phá hoại khiến cho quần chúng hoang mang, tuổi trẻ chẳng màng đến kỷ cương lễ giáo, không biết nên tin vào đâu nữa! Cộng sản hay tay sai cộng sản phá rối thì đâu chưa thấy hiện nguyên hình, mà đồng cảnh tỵ nạn với nhau cứ đánh phá liên tục! Quốc nội cộng sản gài người trong khắp các sinh hoạt dân chúng đã đành. Còn như quốc ngoại đồng cảnh chạy loạn tỵ nạn cộng sản, ấy thế mà có lắm kẻ lợi dụng cây bút, tiền bạc và chút uy tín cặn bã để chụp mũ vu khống lừa gạt người này, hạ nhục kẻ nọ, xuyên tạc đoàn thể kia làm cho thế hệ tuổi trẻ tha hương và cộng đồng người Việt lương thiện đã phải chán nản, giảm sút niềm tin, tăng thêm nghi ngờ, thì chính những kẻ cầm bút bất chánh đó, nếu không là cộng sản thì ít nhất vô tình tiếp tay cho cộng sản. Họ quả thật đắc tội với dân tộc cũng bằng như cộng sản. Cho nên lớp trẻ chúng ta phải hết sức cẩn trọng và tránh xa họ, như tránh xa độc trùng ác thú hay những con bịnh trầm kha truyền nhiễm. Dù là hạng nào, ở lãnh vực nào, hễ ác ý tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ, đặt quyền lợi họ trên quyền lợi chung của đại chúng, thì chính đó là độc trùng ác thú, ta nên tránh xa. Như thế chúng ta mới mong xây dựng thế hệ thanh niên vững niềm tin, yêu đạo, yêu đời, yêu quê hương dân tộc trong truyền thống đạo đức ngàn đời của tổ tiên. Chúng ta phải sáng suốt nhận định và mạnh dạn có thái độ dứt khoát như thế, thì mới thật sự hy vọng ngày quang phục quê hương xứ sở, và cứu vãn dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than.

Xuân về với đất trời. Khí xuân rạt rào khắp nơi nơi hòa cùng vũ trụ. Hồn xuân phảng phất với vạn vật và lòng người. Hy vọng còn được chút hồn xuân thuần túy quê hương, tinh thần xuân yêu thương dân tộc còn vương vấn đâu đâu thấm vào lòng người con Việt tha hương. Chúng ta lớp người trẻ và lớp người đứng tuổi, đặc biệt tuổi thanh xuân đầy nhiệt tình và hy vọng, phải kịp thời thức tỉnh, phải mau trở về nguồn đạo và văn hóa truyền thống của ông cha, để khỏi lạc lõng giữa dòng đời vật chất khô cạn tình thương, thiếu vắng hương vị quê hương dân tộc. Những ai còn thương yêu đất nước giống nòi, còn muốn ngước mặt hướng về những bậc tiền nhân anh hùng dân tộc, còn muốn sống với truyền thống đạo đức tư tưởng văn hóa của ông cha, thì nên trở về với ánh đạo thiêng liêng:

Ánh đạo thiêng liêng quá nhiệm màu
Người dân nước Việt đã ghi sâu
Nếu ai quên hết đường quê cũ
Lúc muốn quay về biết hướng đâu

Về đây với đoàn tăng ni sinh của Phật-Học-Viện Quốc-Tế, với người Phật-tử trong tình tự dân tộc, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn mát an lành từ âm hưởng đạo đức truyền thống của ông cha chúng ta để lại. Có họp đoàn trong niềm tin truyền thống dân tộc, trong lòng đạo từ bi hỷ xả, trong tiếng đồng ca mẹ Việt-Nam yêu dấu ngàn đời, chúng ta mới thấy được hào quang tự chủ độc lập thái bình rạng chiếu của thời Lê, Lý, Trần, mới hòa điệu cùng nhịp sống tâm thức của dân tộc, với hồn thiêng đất nước, với những bậc anh hùng Thường-Kiệt, Công-Uẩn, Hưng-Đạo, Quốc-Toản, Nguyễn-Trãi, Lê-Lợi, Quang-Trung tiếp nối nguồn tâm thức sống động rạt rào tình yêu tổ quốc, một cách hòa điệu chân thành.

Có cảm thông trong tình người, có sống trong tình tự dân tộc, có cảm nhận tư tưỏng truyền thống văn hóa dân tộc bị phá sản thì mới nhận ra tình quê hương tổ quốc bị bóp nghẹt chết dần trong cảnh huống sanh ly tử biệt dưới chế độ cộng sản khắc nghiệt vô thần và bị hư hại bởi kẻ vọng ngoại cuồng thần và bị hư hại bởi kẻ vọng ngoại cuồng tín gây nên. Lúc đó, chúng ta mới thật sự thao thức cho tiền đồ quê hương dân tộc. Nếu ai nấy cũng đều trở về với niềm tin từ truyền thống dân tộc, tức là cùng nhau trở về nguồn, thì chúng ta sẽ tránh được lỗi lầm gây tang tóc cho thế hệ tương lai, không đi sai con đường của tiền nhân đã khai sáng và như thế mới tiếp nối chí nguyện rạng ngời của các bậc tiền bối hữu công với dân tộc xứ sở. Cũng từ nhận thức đó, bằng niềm tin truyền thống, chúng ta sẽ không bao giờ sống với ý thức vong bản đem thân làm kiếp vong nô cho bất cứ chủ thuyết phi nhân vô đạo nào hay thứ cuồng tín nào để phải bị chìm trong hận thù chia rẽ như hiện nay. Chúng ta phải ý thức như vậy và nên tự hiến mình làm nhịp cầu thông cảm, là nơi tri ngộ tâm thức Việt, là nơi làm sống lại tư tưởng truyền thống Việt-Nam trên bước đường ly hương viễn xứ. Chúng ta nên chọn lối sống không dính mắc ân tình thân sơ, không biên bờ phe phái, mà sự hiện hữu của ta là vì và cho tất cả đại nghĩa đạo pháp và dân tộc.

Hỡi anh em ở cái tuổi măng tơ! Hỡi những người còn mang dòng máu Ngô-Quyền, Thường-Kiệt, Hưng-Đạo, Quốc-Toản, Lê-Lợi, Quang-Trung, hãy trở về nguồn đạo từ bi giác ngộ, sống trong tinh thần vị tha giúp đời để chung nhau bồi đắp niềm tin dân tộc, để xây dựng lại quê hương xứ sở trong chiều hướng nhân bản an lạc, nước mạnh dân hùng, giữ gìn đạo truyền thống của con rồng cháu tiên. Về đây, chúng ta hợp đoàn sống trong ánh đạo vàng thiêng liêng. Ánh đạo vàng đã từ hai ngàn năm trước cùng với tổ tiên dựng nước, giữ nước và mở mang bờ cõi hướng đạo quê hương giống nòi đến ngày nay. Chúng ta phải tự hào vui trong nguồn văn hóa tư tưởng truyền thống đó. Nguồn văn hóa chan hòa cùng nguồn đạo từ bi đã tạo thành truyền thống cho lẽ sống đã thấm sâu vào xương tủy máu tim thịt da hơi thở của dân tộc Việt. Đạo thiền đã từng hướng đạo và nuôi dưỡng sinh khí hùng tráng dân tộc trong khí thế dựng nước và giữ nước, nhào nặn thành nền văn hóa Việt huy hoàng ngàn đời.

Xuân hy vọng, xuân họp đoàn, xuân quê hương truyền thống, xuân chiến thắng sẽ sống mãi trong lòng mọi người Việt chúng ta. Xuân đến mở rộng chân trời hy vọng. Ấy là xuân hy vọng trở về quê hương trong ánh sáng huy hoàng. Ngày về nguồn, về đất mẹ vẫn còn nhiều đường sáng mát bình minh. Quê hương dân tộc đang chờ đón ta trong ánh xuân dương thanh bình với niềm tin truyền thống bất khuất.

Mùa xuân ngoại cảnh, ta tràn đầy hy vọng trở lại quê hương trong ánh xuân dương mát lành, trong tiếng chim ca hót trên cành ngày xuân, thì lúc đó chủ nghĩa phi nhân ngoại lai tan biến như mây khói. Mùa xuân nội tâm, ta hồi quang quán chiếu nội tại để đánh bại phiền não vô minh, để cho Phật tánh hiển lộ, để cho tình người dạt dào mà mấy độ xuân rồi ta vẫn chưa thành công chiến thắng. “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.” Chiến thắng mình khi ánh quang minh tâm thức hiển lộ, vô minh dục vọng tan tành, ấy là hoàn thành xây dựng mùa xuân bản thể rạng ngời, không còn sống đời xuân ly hương, đồng thời tuyệt dứt xuân ly hương tâm thức, chấm dứt xuân ly hương tự thân.

Sự đời nào có rắc rối, tại lòng ta nhiều mối đa đoan mà phải than thở phiền lụy đó thôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2021(Xem: 6554)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 9720)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7483)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5038)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
16/08/2021(Xem: 7160)
Con người sinh ra từ xưa đến nay ai ai cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Đó là: Sanh, Già, Bệnh và Chết. Tuy nhiên cũng có người chỉ sanh ra rồi chết liền, không trải qua giai đoạn già hay bịnh; hoặc có người chưa già đã chết vì bịnh hay tai nạn; cũng có lắm người phải sống đến 100 năm hay hơn thế nữa để thấy cuộc thế đổi thay, nhiều khi muốn chết mà chết cũng không được. Dẫu biết rằng sống hay chết là một việc tự nhiên của con người, của muôn vật và ngay cả những chúng sanh có đời sống cao hơn và lâu dài hơn chúng ta, như những vị được sanh ra ở cõi Sắc hay cõi Vô Sắc đi chăng nữa, rồi một ngày nào đó cũng phải chết, phải đi đầu thai. Họ chỉ khác chúng ta là ở cõi đó đời sống sung sướng hơn, có tuổi thọ dài lâu hơn. Vì khi làm người, họ đã biết tạo dựng nhiều phước báu, nên kiếp nầy họ mới được như vậy.
15/08/2021(Xem: 4924)
Cúng ma chay, giỗ người thân đã mất, giỗ ông bà tổ tiên, cúng cô hồn vào những ngày rằm, ngày lễ như lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán …vv cùng với đốt vàng mã là truyền thống ‘tâm linh’ lâu đời của người Việt Nam, là cách tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, hiếu đễ đối với người đã khuất, tổ tiên và thần linh. Ngày nay, việc cúng người chết, cúng ‘cô hồn’ và đốt vàng mã tràn lan trên tinh thần kiến chấp ‘dương sao âm vậy’, nên các loại vàng mã thay đổi đa dạng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nầy: ngoài áo giấy ra, vàng mã còn có cả xe hơi, nhà lầu, ipad, di động, đô la vv với ý niệm ‘thiện lành’ (nhưng tà kiến) là để người ‘âm’ sử dụng. Không những tập tục này phát triển biến tướng trong nhân gian mà còn ảnh hưởng không tốt đến môt số Phật tử tại gia, và ngay cả tại một số tự viện.
15/08/2021(Xem: 7352)
Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v… Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người. Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.
13/08/2021(Xem: 6374)
Công ơn cha mẹ tựa biển trời Làm sao báo hiếu hỡi người ơi? Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu Bất hiếu làm ta khổ trọn đời.
13/08/2021(Xem: 8984)
Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát Phật Dạy Ân Đức Cha Mẹ - A-nan! Ân đức cha mẹ có 10 điều sau đây: MỘT là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay ky' thác thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
09/08/2021(Xem: 8150)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]