Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mùa Xuân Hạnh Phúc

13/05/201312:33(Xem: 10328)
Mùa Xuân Hạnh Phúc
Cho Trọn Mùa Xuân


Mùa Xuân Hạnh Phúc

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-6Người sống trên đời, ai cũng có một thời xuân xanh, ai cũng mong ước mình được hạnh phúc mãi mãi. Nhưng trên thực tế thì thời xuân xanh rồi cũng qua đi và hạnh phúc cũng chẳng mấy khi trường tồn.

Tại sao thời xuân xanh lại trôi qua và hạnh phúc chẳng mấy khi trường tồn? Bởi tâm chúng sanh vô thường biến đổi không cùng, như ngựa không cương dong ruổi đồng nội, như vượn khỉ chuyền cành không phút giây ngừng nghỉ. Tâm người phút trước nghĩ như thế này, phút sau nghĩ như thế khác. Giờ trước vui, giờ sau buồn. Ngày hôm nay thương, ngày mai lại ghét. Tháng này phát tâm hành thiện tu học, tháng sau thối thất đạo tâm. Tâm ý lăng xăng như ngọn sóng triều trong cơn gió lốc. Bởi tâm biến chuyển không ngừng, nên dẫn tạo thân vô thường và theo đó hình thành hoàn cảnh vật đổi sao dời, ruộng dâu cồn bể.

Tâm là chánh nhân đã bất định, nên hình thành vạn cảnh muôn hình vạn trạng sự vật chuyển biến đổi thay, và cứ như thế quay cuồng muôn đời suốt kiếp không bao giờ chấm dứt. Tâm biến chuyển, sự vật theo đó đổi thay tạo thành kiếp của chúng sanh từng giây từng phút biến động hồi hộp lo âu không tìm thấy đâu là bóng hình của mùa xuân hạnh phúc chân thật trường cửu.

Tâm ô trược phức tạp uẩn khúc, nên tạo thành cảnh đời bất tịnh tạp loạn lắm nỗi đắng cay. Tâm khi nầy khi khác, khi thiện khi ác, khi ph���n chí lúc bi ai, do đó tạo thành cảnh đời thạnh suy, thăng trầm, thanh bình, chiến loạn. Tất cả đều do tâm. Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm như công họa sư, tạo chủng chủng chư pháp”. Nghĩa là tâm như người họa sĩ tài ba, vẽ vời ra các cảnh vật thiên sai vạn biệt.

Trẻ thơ sống với cha mẹ ngày ngày được sự nuông chiều, mọi điều ước muốn cha mẹ đáp ứng đầy đủ, không thiếu một thứ gì, thật là cực kỳ êm đềm hạnh phúc. Nhưng sau đó khởi lòng yêu đương, ái tình vương vấn, nên sanh ra lắm chuyện hẹn hò nghi kỵ hờn dỗi dẫn đến nói dối mẹ cha, từ từ xa dần tình thương gia đình anh chị em, xem thường tình thương của cha mẹ, xao lãng học hành, từ đó tâm thần bất an, đầu óc hoang mang suy tư nghĩ nhớ bóng hình vơ vẩn, dẫn đến tâm lo trí rối, thân thể mỗi lúc mỗi mỏi mòn ốm gầy xanh xao, tạo thành bệnh hoạn v.v... cũng từ đó kết thúc thời xuân xanh, tan tành hạnh phúc, chỉ vì một chút móng khởi vọng tâm. Do tâm vọng động biến đổi dẫn đến thân thể chuyển thay, hình thành dây chuyền ảnh hưởng đến gia đình xã hội hoàn cảnh. Thế nên kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tâm sanh nên các pháp sanh. Tâm diệt thì các pháp diệt. Người thể đạt lý này, đồng giác tánh như Phật”.

Một chú điệu từ thuở bé thơ, theo thầy học đạo suốt mười mấy năm trời, tâm hồn thư thái sáng sạch như buổi bình minh, sống bên cạnh thầy, ngày ngày vui với hoa rừng chim muôn dã thú không gợn chút âu lo tư lự buồn phiền, lòng nhẹ như áng mây bay, tâm thanh tịnh thơm lành như hoa rừng sáng sớm rạng đông, trí trong mát nhẹ nhàng như những hạt sương buổi sáng lóng lánh trên cành, suốt mười mấy năm trời với cuộc sống trong lành thanh đạm an nhàn giải thoát:

Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời

Có những đêm trăng, sau giờ nghe thầy giảng kinh kể chuyện đạo, chú điệu một mình dưới mái am tranh thưởng thức ánh trăng thanh mát dịu với cõi lòng an lành thanh thoát thênh thang. Thỉnh thoảng vài chú thỏ rừng, đôi ba con nai nhỏ, năm bảy chàng khỉ tung tăng đến gần bên chú. Chúng ngửi tay liếm chân rồi cắn áo lôi chú ra ven rừng giỡn chơi với chúng như bạn cùng bầy. Đôi lúc những chú thú rừng ngây thơ hiền hòa này mang trái cây rừng đến cho chú điệu mà chúng hái từ non cao rừng thẳm xa xăm. Nhờ vậy mà chú điệu có trái cây xanh tốt cúng Phật dâng thầy và chú cũng có dịp hưởng đủ loại trái cây rừng thơm ngon mà chợ đời đô thị không có. Cuộc sống như thế hạnh phúc hơn gấp muôn triệu lần những mùa xuân xác pháo đầy đường ồn ào huyên náo của thế nhân thị thành. Nhưng với người trần tục thử hỏi mấy ai cảm thấy được mùa xuân tuyệt vời của chú? Chẳng những người đời nặng chĩu lòng trần không cảm nhận được cái thanh thoát hồn nhiên, với cõi lòng thênh thang vô biên cùng vũ trụ của chú điệu, mà còn cho cuộc sống ở chùa quá quạnh quẽ buồn hiu! Chính vì không cảm nhận được sự an lành thanh thoát trong cảnh sống tịch tĩnh thanh sơ, e ngại chú hành đạo chốn núi rừng quạnh hiu khổ cực, nên đã bao lần cha mẹ anh em đến dùng đủ lời ngon ngọt khuyên dụ chú về nhà với gia đình để cùng hưởng cảnh đoàn viên hạnh phúc trong những thú vui dục lạc trần gian.

Mỗi lần bị dụ dỗ như thế, chú điệu chỉ biết im lặng để từ chối. Chú thấy cuộc sống nơi am tranh thanh tịnh với thầy thật là giải thoát, hạnh phúc bao la, không một chút bận lòng. Thời gian lặng lẽ trôi qua theo ngày tháng, chú chả để tâm đến cảnh đời chuyển biến ra sao, chỉ biết sống hồn nhiên vô tư lự, không vướng mắc sự đời. Nhưng cha mẹ chú nào có cảm nhận được sự giải thoát an lạc ấy, nên dùng đủ mọi thứ khổ nhục kế để quyết thuyết phục chú xiêu lòng hoàn tục cho được! Anh chị em chú có lúc đã quỳ hàng giờ lạy ôm chân chú ràn rụa nước mắt với những lời thảm thiết nỉ non khiến cho chú xúc động, lòng nao núng, tâm rung cảm, chí không còn kiên trì, nên một ngày nọ chú điệu xiêu lòng vào lạy thầy từ tạ để theo cha mẹ gia đình về lại thế tục. Thế là ma quyến thuộc đã buộc chặt chú vào lối đi tình cảm, lôi chú ra khỏi cảnh giới an lành thanh thoát của chốn thiền môn, để rồi sau đó từ từ chôn đời sống thanh tịnh của chú vào biển đời ngũ dục phiền lụy.

Chẳng bao lâu, chuyện lập gia đình, chuyện trăm năm môn đăng hộ đối, chú gặp phải người bạn đời (vợ) tánh tình lúc đầu khá tương hợp, lý tưởng dễ dung hòa, nhưng thời gian tâm đầu ý hợp êm ấm hạnh phúc chẳng bao lâu thì ý tưởng mỗi người một hướng, vô hình chung tạo thành cảnh đồng sàng dị mộng, tuy không tan rã, nhưng chú đành phải bóp bụng buồn lòng sống trong câm lặng khổ đau, sống là sống gượng, vì thương các con và để cho cha mẹ gia đình vừa lòng, cũng để người đời nhìn vào còn lấy thể diện! Thực tế cảnh sống gia đình đã làm cho chú âm thầm khổ tâm ray rứt, rồi dần dần về sau, ngày biếng ăn, đêm trằn trọc khó ngủ và dần dần chú trở nên người ít nói, không còn thích thú tiếp xúc với mọi người. Nhiều đêm một mình một bóng suy tư, nghĩ nhớ cảnh thanh tịnh chốn thiền môn, chú tiếc nuối cái thời sống với thầy, cùng đùa giỡn với dã thú hoa rừng sao mà thanh tịnh giải thoát quá, giờ đây còn đâu nữa! Có những đêm một mình nhìn ánh trăng khuya qua cửa sổ, chú tự nghĩ trách thầm cho mình vì một niệm tình cảm vô minh lầm nghe lời quyến thuộc thế tục khuyên dụ mà rời bỏ đời sống quyến thuộc Bồ-đề, đánh mất nguồn sống an lạc!

Biết chừng nào mới thoát được cảnh vợ buộc con trói để trở lại cảnh thiền môn thanh tịnh:

Ta về nơi cảnh tĩnh
Vui lại thiền thống xưa
Trăng nhìn qua kẽ lá
Hoa rừng ngát hương đưa
Suối reo tròn năm tháng
Hoa dại nở suốt mùa...

Nhưng cảnh tĩnh đâu còn nữa! Mà cảnh sống thực tế giờ đây quá phũ phàng, vợ con nhà cửa buộc ràng đủ thứ phiền lụy! Chỉ vì một niệm khởi tâm bất giác xiêu lòng nghe theo lời ngọt mật nỉ non của gia đình bà con quyến thuộc mà dẫn đến sự tan tành hạnh phúc mùa xuân đạo hạnh đã có trong cảnh Phật.

Chú không dám trách tình thương của cha mẹ anh chị em đã đặc biệt dành cho chú, lôi kéo chú xa lánh cuộc đời giải thoát an vui trong chốn thiền môn, để ngày nay phải rơi vào cảnh tục lụy thê thằng tử phược chán chường như thế này, mà chú chỉ tự trách mình thiếu kiên tâm vững chí, chỉ một phút khởi vọng tâm nghe lời dụ dỗ ngon ngot không nhận chân ý nghĩa của tình đời “thương ái là họa hại”, để phải hủy hoại một đời thăng hoa thánh thiện, đánh mất mùa xuân hạnh phúc miên trường trong cửa Phật từ bi mà thế nhân không làm sao có được.

Cửa chùa vốn thanh tịnh hiền hòa dù đó là mái tranh vách lá, nhưng không vướng bận bụi nhơ hơn thiệt thị phi của trần thế. Người Phật tử đến với đạo, nếu biết vận dụng tâm thành, gạt bỏ lợi danh, một lòng chánh niệm chuyên việc tu tâm dưỡng tánh, thì công quả vun bồi phước đức vẹn toàn, hiện đời đạt được thanh tịnh an lành. Một khi tâm thành chánh niệm thì tự nhiên tạo cho mình mùa xuân vạn hạnh vô biên.

Đến chùa học đạo tu tâm mà còn thấy mình có công có danh có quyền có lợi, muốn thầy phải nghe lời mình thế này thế khác để vừa lòng mình, được lòng vợ con bạn bè mình, những người như thế muôn đời vẫn cảm thấy lòng bất an, mùa xuân hạnh phúc vẫn mãi mãi xa vời, và cửa hang ba đường ác đạo sẵn sàng mở toang chờ đón bước vào.

Bởi vì một khi thấy có thì sẽ thấy không, thấy được thì sẽ thấy mất. Tâm bệnh của chúng sanh nếu không tu sửa tánh tình thì sẽ mỗi ngày càng thêm vô minh dầy đặc u muội, từ đó phải khổ lụy vì những thứ có không, còn mất, đắc thất, khen chê. Chính vì tâm chấp trước có không, được mất, đắc thất, khen chê mà đã làm não nề thê thảm kiếp kiếp khách trần danh lợi ái tình. Họ sẽ phải mãi mãi sống trong những mùa đông điêu linh băng giá, và ngàn đời không bao giờ được sưởi ấm ánh xuân dương an lành hạnh phúc thanh thoát.

Kẻ hám danh trục lợi dục tình, dù thân có mang đầy chuỗi hạt anh lạc, mặc áo của thần tiên thánh Phật thì áo chuỗi đó cũng trở thành áo ma chuỗi đá, chỉ để che đậy cái thân xác dục vọng mà thôi. Tâm nặng lợi danh tranh hơn hận thua, mà xây chùa đúc tượng thì chùa đó dĩ nhiên Phật không dám ở, tượng đó tất phải quỷ tàng hình. Thậm chí họ có tự vẽ vời giả trang ngồi tòa sen hay phóng hào quang thì những thứ đó cũng trở thành đồ vàng mã rơm rác. Kẻ tà niệm cho dù có thuộc làu kinh điển nói cũng trở thành lời của tà ma, bởi do bản chất của họ là tà tâm tham vọng, chẳng khác nào bình chứa rượu lâu năm không xúc rửa chùi lau, đem nước đổ vào thì nước đó tất nhiên hôi mùi rượu. Huống chi họ nhận là Phật tử thì đó là loài ma vương tham vọng ngụy hình để nhập vào hàng tứ chúng đệ tử Phật với ý đồ cầu lợi tìm danh tranh giành lũng đoạn, khiến cho người hoài nghi Phật pháp, làm cho Phật pháp mau suy tàn! Kinh Phật dạy: “Kẻ tà nói chánh pháp, chánh pháp biến thành tà. Người chánh nói tà pháp, tà pháp biến thành chánh”.

Những người đã có tà niệm lợi danh thì ở đâu, đến đạo tràng nào, trước sau gì cũng tạo sự ồn loạn phiền não nghi kỵ cho đại chúng, và cuối cùng thủ đoạn ăn-không-được-thì-khuấy-cho-hôi, được-làm-vua-thua-làm-giặc, có làm như thế tặc tâm ác ý họ mới an vui hả dạ.

Ngày xưa Phật còn tại thế cũng đã có xảy ra những chuyện tương tự. Ngày nay vào thời mạt pháp, cách Phật đã xa, nhân tâm lại càng vọng động, đạo tâm suy vi, thì tình trạng phiền nhiễu này lại càng thêm dẫy đầy trong cửa Phật! Vì vậy, những ai còn nặng tâm phàm phu, không đủ nghị lực thanh tịnh hóa thân tâm thì muôn đời khó mà cảm thấy được mùa xuân hạnh phúc.

Xuân tết nhà Phật thường gọi là xuân Di-Lặc. Tại sao gọi là xuân Di-Lặc? Lý do là vía của đức Di-Lặc đúng vào ngày mồng một Tết. Với đức tánh hỷ xả, với nụ cười cởi mở hả hê, với gương mặt tròn đầy, thân hình nở nang, thể hiện thật tánh vô tư tự tại với các chú lục tặc, Ngài hoàn toàn hiển lộ trạng thái an nhiên hỷ xả, ai nhìn vào cũng sanh tâm hoan hỷ. Đức Di-Lặc tượng trưng cho niềm an vui hạnh phúc vô biên muôn thuở. Ở nơi Ngài tỏa ra bầu trời xuân an lạc. Ngày xuân Tết là ngày vui mừng hoan hỷ, ngày tràn đầy hy vọng hạnh phúc của thế nhân. Thế nên, nhà Phật lấy niềm hoan hỷ của đức Di-Lặc tượng trưng cho mùa xuân hạnh phúc chơn thường bất diệt tạo niềm hoan lạc cho trần gian.

Nếu mùa xuân là mùa cho mọi người vui cười hạnh phúc, cho hy vọng tương lai tươi sáng, cho một năm tràn đầy ý nguyện, thì chính hạnh hỷ xả của nhà Phật qua nụ cười hoan hỷ bất diệt của đức Di-Lặc có thể hình dung mùa xuân hạnh phúc muôn đời.

Người có đức tánh hỷ xả là người có bầu trời xuân hạnh phúc. Xả là xả bỏ không luyến tiếc, không câu nệ chấp nê, cái gì qua thì cho qua, không vướng tâm bận lòng, dứt khoát buông xả như gió thoảng, như tiếng vang, như nhạn bay qua mặt hồ, như gió thoảng qua cành trúc, như người có lỗi lầm với mình thì mình xả bỏ tha thứ, không chấp trách, không hạch sách, không để tâm ghim gút hận thù. Như thế thì mình và người thông cảm hòa vui. Nhờ đó dễ dàng tạo cho nhau mùa xuân an lành hạnh phúc chân thật:

Người có lỗi lầm ta thứ tha
Khoan dung đại độ tánh ôn hòa
Đã không buồn tức mà yên tĩnh
Mở rộng lòng thương sống vị tha

Những ai trong cuộc đời một khi những thứ quyền cao chức trọng danh vọng giàu sang rời khỏi tầm tay mà lòng vẫn thản nhiên không mảy may xao xuyến luyến tiếc, thì người đó đích thực thể hiện cõi lòng tự tại thanh thoát, xem nhẹ danh lợi ái tình chẳng khác như cánh hoa hồng gai từ tay rơi xuống đất. Những người như thế lòng tràn đầy mùa xuân hạnh phúc, thong dong tự tại giữa dòng đời phiền lụy trầm luân.

Các bậc thánh nhân giác ngộ xem danh lợi ái ân như rác bụi dính trong con mắt nên các Ngài lúc nào cũng thoải mái tự tại an vui trước cảnh đời thạnh suy tan hợp, qua lời khuyên của bậc cổ đức: “Ngộ thanh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết.” Đại ý rằng, tài hoa sắc đẹp trên đời chẳng qua là trò chơi bóng nước, như cây mọc trên đá; danh vọng tiền tài làm hại đạo tâm như rác bụi dính vào mắt. Người biết xem nhẹ lợi danh, khinh thường quyền chức, dứt bỏ dục vọng, khi danh lợi ái tình rơi mất thì như rũ sạch bụi áo, người ấy chắc chắn sẽ tạo cho mình mùa xuân hạnh phúc chân thường bất diệt và sẽ thưởng thức vẻ đẹp muôn hình muôn sắc của trời xuân bất tận.

Những ai trong chúng ta nếu liễu đạt cái thân này là giả hợp tạm bợ, sự còn mất của thân nầy chẳng khác nào như bánh đất của trẻ con chơi, thì người đó liễu thoát sanh tử. Cái thân này sống qua hơi thở, thở ra mà không hít vào là bước vào đời khác. Mạng sống mong manh như sương trên đầu cành buổi sáng sớm, như áng mây hồng vào lúc hoàng hôn. Hôm nay còn vui cười xum hợp chưa chắc còn được ngày mai. Sự lìa xa thân thuộc để ra người thiên cổ, giờ phút trước mạnh khỏe khó lường được giờ phút sau, đấy là chuyện thường tình thế gian. Sự đời thay đổi chóng mau trong khoảnh khắc. Thân này đã không chắc thật, thì tiền tài danh vọng là những thứ chúng ta tạo ra, ngoài thân ta, là thứ phụ thuộc chúng ta thì làm sao được lâu bền? Điều này rõ như ban ngày. Thân ta đã không chắc thật thì cảnh vật chung quanh nào có trường tồn? Người có tâm chí cầu đạo Bồ Đề sao không lãnh hội, để sớm đổi cái giả tạm mà nhận lấy cái chân thường, từ đó có được mùa xuân vạn hành miên trường?

Để cho thế nhân triệt ngộ chân tướng của sự vật ở đời là vô thường ngõ hầu từ đó tạo cho con người tỉnh thức để trọn hưởng bầu trời xuân hạnh phúc, nên Vạn-Hạnh thiền sư đã có bài kệ khai thị đại chúng:

Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Xá chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.)

Cùng ý nghĩa đó, kinh Kim-Cang đức Phật dạy rằng:

Xưa nay vạn vật trên đời
Bọt bèo mộng huyễn có rồi hoàn không
Kìa xem điện chớp trên không
Hạt sương sáng sớm đem lòng quán xem.
(Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.)

Người biết sống trong chánh niệm, khéo điều tâm khiển thân, chân thành hành đạo, tu tâm dưỡng tánh, từ đó tạo thành phước đức, thì mặc sức hưởng mùa xuân hạnh phúc. Ngược lại, kẻ không biết sống trong chánh niệm, lệ thuộc ngoại cảnh, chạy theo tà tâm tham vọng thúc đẩy thì sẽ phải trôi lăn đắm chìm trong biển đời danh lợi thị phi, nổi trôi trong dòng sông ái ân dục vọng, sống ngày nào chỉ tạo thêm tội lỗi. Kinh Bát-Đại Nhân-Giác đức Phật dạy: “Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội” (Tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu). Thế nên Cổ-đức nói: Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Người đắm chìm trong vòng tâm thức vô minh dục vọng, không biết hồi tâm giác tỉnh thì cứ mải đắm đuối theo đuổi danh lợi, tranh đua hơn thiệt tất phải không bao giờ có được mùa xuân hạnh phúc. Mùa xuân hạnh phúc lúc nào cũng tràn ngập trong cuộc sống của những ai biết sống trong chánh niệm, biết sống thúc liễm thân tâm, biết sống với cõi lòng thanh tịnh từ bi, hỷ xả, vị tha, và trí túc.

Không sống theo dục tình tham vọng là cõi lòng được an lạc tràn ngập trời xuân.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5179)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5598)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4454)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 4999)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4579)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5284)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4782)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9508)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4888)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4124)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]