Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tích Lan: Mahintale, tu viện của hai ngàn chư Tăng

09/04/201316:45(Xem: 4276)
Tích Lan: Mahintale, tu viện của hai ngàn chư Tăng

Tin Tức Phật Sự Đó Đây

Tích Lan: Mahintale, Tu Viện Của Hai Ngàn Chư Tăng

Như Quang

Nguồn: Như Quang

tich_lan

Colombo, Sri Lanka– Ngày 26, tháng 5, năm 2012 – Từ Mihintale xuất phát từ Pali ngữ Mahindathala, chỗ của Thượng tọa Mahinda. Điều đặc biệt là cuộc gặp gỡ đầu tiên của Thượng tọa Mahinda với nhà vua Devanampiya Tissa xảy ra tại Mihintale vào ngày trăng tròn tháng 6.

Cuộc diện kiến này đã được ghi lại trong bảng niên đại và văn chương Phật giáo cũng thấp thoáng những huyền thoại và các sự kiện hy hữu. Nhưng không có điều nghi ngờ nào về sự kiện lích sử này do chữ viết Brahmi tại Mihintale nói về các bảo tháp của nhị vị hoằng pháp Mahinda và Itthiya.

Sự tiếp nhận Phật giáo của nhà vua Devanampiya và nhân dân mở ra một kỷ nguyên mới chấm dứt các lòng tin tôn giáo thời tiền sử như tôn thờ các cội cây, các ngọn núi, những vì sao, thánh thần và các thần linh như long vương, dạ xoa. Thật ra Phật giáo đưa con người trong toàn Tích lan đến một nền văn hóa đồng nhất tin tưởng vào những lý tưởng chung và thực hành cùng một nghi lễ. Sự đồng nhất này cũng là sự lót đường cho việc phổ biến kinh điển Pali, chữ viết Brahmi và nghệ thuật viết chữ, gạch, và kiến trúc đá, điêu khắc trên toàn bán đảo.

Vùng núi Mihintale đã trở thành khu vực tôn giáo với nhiều đền tháp và các tòa nhà tôn giáo khác che toàn khu vực rộng 460 mẩu với các bảo tháp quan trọng như Kanthaka, Chetiya, Mahasaya, v.v…Đây là lý do tại sao địa danh này có tên Chetiyagiri, tức là đỉnh núi Chetiya. Thêm một lý do nữa là Ngài Mahinda được sinh ra ở một nơi tên Chetiyagiri tại Vidisa, Ấn độ.

Các tín đồ đã kéo đến các bảo tháp này để hành lễ và cần phải có một số tỳ khưu để thực hiện những buổi lễ này. Ngọn núi cũng là nơi lý tưởng để những vị tỳ khưu hành thiền tầm cầu giải thoát. Trong giai đoạn khởi đầu của Phật giáo, các Ngài sống trong các hang động nhưng sau đó chuyển đến các tự viện thoải mái hơn trong đô thị. Theo Ngài Pháp Hiển, một nhà du lịch Trung hoa đã học kinh điển Phật giáo tại Anuradhapura trong vòng 2 năm trong khoảng thế kỷ 411 đến 413 trước công nguyên, có khoảng 2 ngàn chư Tăng Phật giáo sống tại Chetiyagiri trong khoảng thời gian này. Các di tích chùa chiềng và các bình đựng gạo tìm thấy tại trai đường dài 23 mét, rộng 4 mét là những chứng cớ khảo cổ rõ ràng cho thấy có sự hiện hữu của một số đông chư Tăng tại khu vực này.

Khuôn viên được phát triển với nhiều kiến trúc đặc biệt cho đến cuối thời đại Anuradhapura, thí dụ Hồ voi được mệnh danh là Nagasondi, được xây vào thế kỷ thứ 6, triều đại Aggabodhi (571-604). Vào thế kỷ thứ 9, triều đại Sena đệ nhị (853-887) xây dựng bệnh viện, nhà thuốc, phòng chờ cho bệnh nhân, phòng khám bệnh, trung tâm thiền cho chư Tăng bệnh, phòng cho các bệnh nhân nội trú và một máng chứa nước thuốc để chửa bệnh theo phương pháp thủy liệu.

Về hướng Tây của tự viện chính là chùa Kaludiya Pokuna, một công trình của Kashyapa đệ tứ (898-914) vào thế kỷ thứ 10. Tự viện này chiếm một khu vực rộng 183 mét vuông, được gọi là chùa Hadayunha, theo bảng niên đại. Điểm quan trọng tại Mihintale là chư Tăng của nhiều hệ phái khác nhau sống hòa hợp tại các tự viện khác nhau như trường hợp của Abhayagiri tại Anuradhapura. Tu viện Kaludiya Pokuna, hay Hồ nước đen dài 61m, rộng 21 m. Điểm đặc biệt của Mahintale là chư Tăng thuộc nhiều hệ phái đã sống hài hòa với nhau tại các tu viện, chẳng hạn như tu viện Kaludiya Ppokuna là nơi an trú của chư Tăng thuộc hệ phái Bắc truyền. Chín mươi mốt bảng đồng với những câu kinh Sanskrit từ bộ kinh Bát nhã ba la mật được khám phá tại Indikatusaya vào năm 1923.

Mihintale cũng cung cấp một số chi tiết về những cá nhân bảo trợ cho một số kiến trúc của Mihintale. Dĩ nhiên hoàng gia và giới quý tộc là những người đóng góp chính nhưng dân chúng thuộc nhiều thành phần trung lưu khác nhau cũng có đóng góp. Một trong những tấm bia tại Kaludiya Pokuna ghi rõ cầu thang dẫn vào tòa nhà chính được cúng dường bởi người thợ kim hoàn tên Mulaguta.

Một tấm bia dài của Mahinda đệ tứ (956-972), gần trai đường vô cùng quan trọng trong việc tìm hiểu về sự quản lý tu viện tại Mihintale và tại các nơi khác nói chung. Theo điều ghi chép trên tấm bia này, lợi tức từ đất đai cung cấp cho tu viện được dùng để trả thù lao cho một số cư sĩ phục vụ trong tu viện. Trong nhiều trường hợp, một số lô đất cũng được cung cấp cho họ. Những dịch vụ gồm có sắp xếp các cuộc lễ hội, thực hiện các lễ hội, giặt y, cung cấp các nồi, đồ lọc nước, chanh, hoa, dầu, v.v...; làm việc trong trai đường, sửa chửa các tòa nhà như thợ hồ, thợ mộc, thợ rèn; làm việc trong dưỡng đường như bác sĩ dược sĩ, y tá, và giữ gìn sổ sách cho việc kiểm toán hàng năm. Tấm bia này cũng qui định nhân viên của tu viện không được sử dụng nhân viên của tu viện vào công việc cá nhân và cũng không được gởi những người này đến phục vụ cho cộng đồng.

Mihintale bị bỏ bê từ đầu thế kỷ thứ 11 và đến giữa thế kỷ thứ 13 thì hoàn toàn bị lãng quên do sự suy sụp của nền văn minh Rajarata. Chỉ đến đầu thế kỷ thứ 20 khu tự viện rộng lớn này mới được chú ý trở lại và những kiến trúc mà chúng ta thấy ngày hôm nay được tái tạo bởi các nhà khảo cổ H.C.P. Bell, A. M. Hocart, và S. Paranawithana.



Như Quang dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/01/2016(Xem: 3579)
Trong tinh thần hộ trì Tăng bảo & gieo duyên lành với chư Tăng tu hành nơi xứ Phật, nhân dịp NewYear 2016, chúng tôi đã thay mặt chư vị Phật tử, chư thiện hữu phát tâm lành cúng dường chư Tăng, Ni tu tập tại Bồ Đề Đạo Tràng nhân Pháp hội: '' Padme Amitabha- Pray for WorldPeace ''. Xin gửi quí vị một vài hình ảnh tường trình về buổi đi cúng dường vừa viên mãn vào sáng hôm qua Jan 7th 2016
09/12/2015(Xem: 7376)
Sáng ngày 05/12/2015, lần lượt các đoàn, các đại biểu tham dự chương trình Hội Thảo Hoằng Pháp vân tập về TP Vũng Tàu. Một số khách sạn được BTC đặt sẵn, vẫn chưa có phòng cho các đại biểu, bởi lẽ, 12g khách lưu trú mới trả phòng, vì thế, chư Tăng Ni đều tản mát trên đường phố biển, như đàn bướm dạo vườn hoa.
01/12/2015(Xem: 11632)
Ngày thứ ba 1-12-2015, thầy, khoảng 25 Thầy, Cô giáo Trường Tiểu Học Thomastown đã viếng thăm và tìm hiểu giáo lý Đạo Phật, TT Trụ Trì Nguyên Tạng đã tiếp phái đoàn và giới thiệu tổng quát về giáo điển của Đạo Phật, sinh hoạt của TV Quảng Đức cũng như hướng dẫn ngồi thiền. Mục tiêu cuộc viếng thăm này là để làm quen và mở rộng mối quan hệ giữa nhà trường và các cơ sở tôn giáo. Sắp tới nhà trường sẽ cho các học sinh đến chùa để tìm hiểu giáo lý như là một buổi học ngoại khóa.
27/06/2015(Xem: 9966)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
29/12/2014(Xem: 25905)
Tiếp nối đường hướng GHPGVNTN-HN tại UĐL-TTL bảo tồn văn hóa dân tộc và phát huy Phật Pháp tại hải ngọai, giúp tạo phương tiện cho ngày càng đông hơn quý Nam Nữ Phật tử, quanh năm bận rộn, khó có cơ hội cùng nhau hòa hợp tu tập nghiêm túc, dài hạn và nghiên tầm, học hỏi, chia xẻ Giáo lý Phật đà cách sâu sắc; Tùy thuận yết ma tăng sai trong phiên họp Thường niên của Gíao Hội ngày 31/12/2013, thừa hành tinh thần Quyết Định số 39-04/HĐĐH/HC/QĐ do Hòa thượng Hội Chủ ký ngày 1/1/2014; và sau thời gian thăm dò, tìm kiếm, cũng như hội ý nhiều lần với một số chư Tôn đức trong Ban Tổ Chức trong việc chọn địa điểm thích hợp cho Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 14, cho năm 2014;
25/06/2014(Xem: 12699)
Chùa Báo Ân được Ni Sư Huệ Khiết thành lập vào năm cuối 2009 sau mấy tháng trở lại Úc sau nhiều năm tu học tại Đài Loan. Ni Sư Huệ Khiết sinh năm 1963 tại Cố Đô Huế, là đệ tử quy y ngũ giới với HT Thích Khế Chơn (Chùa Thiên Minh, Huế), năm 1979 xuất gia với Sư Bà Thích Nữ Như Từ (Chùa Thiên Chánh, Bà Quẹo, Sàigòn), đệ tử y chỉ của Sư Bà Từ Nhẫn (Chùa Phước Viên, Hàng Xanh, Sàigòn). Năm 1988 đi vượt biển đến đảo Galang, Indonesia. Năm 1990, Ni Sư được GHPVNTN tại Úc bảo lãnh sang Úc định cư. Năm 1992, Ni Sư lên đường du học tại Phật Quang Sơn, Đài Loan.
13/03/2014(Xem: 7475)
Mùa hạ, mùa tốt đẹp nhất trong năm tại Châu Âu. Cây lá xanh tươi, mặt trời ấm áp mang lại sinh khí cho vạn vật. Các hãng xưởng, công ty giảm mức sản xuất xuống thấp nhất để cho nhân viên được đi nghỉ ngơi dưỡng sức
13/03/2014(Xem: 8154)
Khi nói đến hai chữ "Thụy Điển", tôi liên tưởng ngay đến Thủ Tướng Ingvar Carlsson, vị cứu tinh không những đối với hai vị Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu nói riêng mà còn đối với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nói chung không bị mất đi hai nhân tài lỗi lạc.
02/01/2014(Xem: 13046)
TU VIỆN QUẢNG ĐỨC KHÓA TU PHẬT THẤT KỲ 01 (Từ ngày 7 đến 12-1-2014) (Do TVQĐ và Tổng Vụ Hoằng Pháp của Giáo Hội tổ chức) * Thứ Ba, 7-1-2014: 8.00am: Phật tử tề tựu và ghi danh 9.30am: Lễ khai mạc Khóa tu 11.30am: Cúng Quá đường & kinh hành niệm Phật 2.00-3.30pm: Pháp Môn Tịnh Độ (HT Trường Sanh) 2.30-3.30pm: Lớp tiếng Anh (Ven. Thích Thông Pháp) 4.00-4.45pm: Công phu chiều (ĐĐ Nguyên Tuệ) 5.00pm: Dược thực 7.00pm: Thọ trì Lương Hoàng Sám 9.30pm: Thiền tọa (30 phút) 10.00pm: Chỉ tịnh
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567