Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Án Oan của Một Công Thần

03/11/201711:50(Xem: 8677)
Án Oan của Một Công Thần

Thoại Ngọc Hầu
  ÁN OAN CỦA MỘT CÔNG THẦN
 
 
  Nguyễn Thiếu Dũng

 

 

 

Thoại Ngọc Hầu, một công thần suốt đời tận tuỵ hy sinh vì cơ đồ của nhà Nguyễn. Sinh thời ông rất được các vua Gia Long, Minh Mệnh trọng dụng nhưng khi mất đi chưa được bao lâu thì cũng chính Minh mệnh đã hài tội ông, còn các sử quan nhà Nguyễn thì trong Đại Nam Chính Biên liệt truyện, theo lối viết Xuân Thu đã xếp ông vào nhóm công thần trọng tội: Lê văn Quân, Nguyễn văn Thoại, Lưu Phước Tường, Đặng Trần Thường, Đỗ Thanh Nhân.( ĐNLT, T2, tr 511, nxb Thuận Hoá 2006)

 

Đối với chế độ quân chủ phong kiến, vua là người duy nhất có uy quyền, không một ai khác có thể tạo ảnh hưởng đối với nhân dân lấn át ảnh hưởng vua, nhất là đối với nhà Nguyễn, ngay trong hoàng gia và triều đình những mầm họa lấn lướt ảnh hưởng vua cũng đã bị chận đứng không để tạo thành phôi: không phong Hoàng hậu, không lập Thái tử, không ban Tể tướng, không lấy Trạng nguyên. Vì thế đối với đình thần, nhà Nguyễn càng cảnh giác rất cao, những ai có công trạng càng phải đề phòng. Gia Long diệt Đỗ Thanh Nhân ngay khi còn đang bôn ba khôi phục sự nghiệp vì cái thế của vị tướng Đông Sơn này có triệu lấn lướt Nguyễn Vương, Gia Long bức tử Nguyễn văn Thành khi vị Tiền Quân Tổng Trấn Bắc Thành này muốn can dự vào việc lập người kế vị. Khi đã lên ngôi, Minh Mệnh tạo ra vụ án loạn luân để dìm chết Tống Thị Quyên vợ Đông Cung Cảnh và loại Mỹ Đường con của Đông Cung Cảnh ra khỏi hoàng gia để phòng biến loạn tranh chấp ngai vàng. Đối với đình thần, nhà Nguyễn thường dùng chiêu “cây gậy và nắm xôi” để chế ngự họ. Một Nguyễn Công Trứ lên voi xuống chó khi làm tới Đại tướng lúc bị cách tuột xuống làm lính thú ở biên thuỳ mà vẫn cúc cung tận tuỵ với nhà Nguyễn là một điển hình của chính sách này.

 

Trường hợp Thoại Ngọc Hầu cũng không nằm ngoài chính sách vắt chanh bỏ vỏ của Minh Mệnh, ngày nay càng ôn lại cuộc đời của ông chúng ta càng cảm thấy đau lòng, xót xa cho những oan khuất mà Hầu phải gánh chịu khi tấm thân đã về trong lòng đất làm cho đất mẹ thêm mầu mỡ hơn.

Sinh thời Thoại Ngọc Hầu rất được các vua nhà Nguyễn trọng vọng, nếu có sóng gió chỉ là những gợn sóng lăn tăn, chứ không phải những đợt ba đào vùi dập như Nguyễn Công Trứ, nhưng khi ông nằm xuống thì bão táp mới ập đến, vì sao vậy?

 

Thoại Ngọc Hầu không phải là trường hợp đơn lẻ sau khi chết rồi mới bị hài tội mà hiện tượng này được lặp lại một cách có hệ thống dưới thời Minh Mệnh, sau ông còn có Lê văn Duyệt, Lê Chất v.v...Khi còn đương quyền, Lê văn Duyệt và Lê Chất rất được Minh Mệnh trọng vọng. Lê văn Duyệt được Minh Mệnh thưởng công trung thành tận tuỵ ban cho đai ngọc, một vinh dự lớn lao mà các hoàng tử tước công cũng chưa từng được hưởng, còn Lê Chất chết, Minh Mệnh thương xót nghỉ chầu 3 ngày. Vậy mà sau khi họ chết chẳng bao lâu Minh mệnh đã hài tội:

 

Lê văn Duyệt lúc còn sống mạo danh nghĩa, tự cho mình là công bằng, trung trực đối với nước, nhưng xét đến việc làm điều gì cũng ngông cuồng bội nghịch” (ĐNTL, XVIII, 221) “Trước đây tên hoạn quan chuyên quyền là Lê văn Duyệt lấy oai ức hiếp, kẻ ngu tự cho hắn là chủ soái một phương, không biết đến triều đình”…(ĐNTL, XVIII, 291)

Còn Lê Chất thì vua phán: “Chất tính vẫn sài lang, nết cũng quỷ quái, làm tôi thì bất trung, bất chính, xử sự thì đại ác, đại gian, việc gì cũng làm bậy, ai ai cũng phải nghiến răng”.( ĐNLT, T2, tr 481, nxb Thuận Hoá)

Lê Chất cùng Lê Văn Duyệt dựa nhau làm gian, tội ác to nặng, cái tóc cái tội, bổ quan tài ra mà chém xác cũng không quá đáng”.( ĐNLT, T2, tr 483, nxb Thuận Hoá 2006)

 

Thoại Ngọc Hầu lúc sinh thời được liệt vào hàng ngũ công thần có công phò giá Gia Long khi còn bôn ba ở Thái Lan gọi là công thần Vọng Các, là người cần mẫn siêng năng, thanh liêm, có trách nhiệm như lời tâu của quan chức ở trấn thành Gia Định: “Án thủ bảo Châu Đốc, Thống chế Nguyễn văn Thoại trước mộ dân dời đến ở đất biên thuỳ, đặt ra 20 xã thôn, vay của công 1900 quan tiền và 1500 phương gạo, đã hoãn cho nhiều năm, dân vẫn không trả được. Đến nay Thoại đem của nhà trả bù cho dân”.Vua nói:

Thoại làm như thế là tôn trọng của nhà nước đấy. Nhưng nghĩ dân ấy mới chiêu tập đến, sinh lý chưa thừa, nay bắt Thoại đền, lòng trẫm không nỡ như thế. Hơn nữa Thoại ở biên thuỳ lâu ngày, dân tình thoả hiệp, tiền gạo trả bồi ấy thì đúng số trả lại cho, có thể xem như trẫm khen đấy “(ĐNTL, VIII, Tr 179, năm 1827)

                                       

Thế mà chẳng bao lâu sau khi Thoại Ngọc Hầu không còn nữa Minh Mệnh đã đổi giọng:

Nguyễn văn Thoại đã được uỷ cho trọng trách bảo vệ biên cương, thế mà không biết tuyên dương đức hoá, vỗ yên dân chúng ngoài biên, lại dám sinh sự nhiễu dân, gây nhiều suối tệ! Huống chi Thoại lại cùng kẻ bị trãm quyết là Trần Nhật Vĩnh dối trá giấu giếm mọi việc, dựa nhau làm điều gian, tội ác rất nặng, nếu con người ấy còn sống thì ta cũng cứ giữ lòng chí công làm đúng hình pháp, chém đầu để bêu cho mọi người biết.”(ĐNTL, XI, 88, 1832)

 

Khi cần Nguyễn văn Thoại ở cương vị bảo vệ Cao Miên, Minh Mệnh hết lời động viên ông:

“Vua nghe tin bảo hộ Nguyễn văn Thoại cùng vua Phiên không hợp ý muốn xin giải chức, dụ rằng : “Vỗ về nước Phiên thuộc,trị yên nơi biên cương, cần phải được người mới có thể tuyên bố oai đức triều đình để giữ vững bờ cõi ta. Ngươi đối với các nước man Xiêm, Lạp, nhân vật phong tục, núi sông chỗ hiểm, chỗ bằng, đã quen thuộc lắm, cho nên giao cho ấn bảo hộ Chân Lạp, coi việc ngoài biên, từ lâu đến nay thực cũng xứng chức. Thế mà vua Phiên tính vốn ngu tối, xưa vì còn ít tuổi ưa nghe người xấu nên cùng ngươi từng có khi không hợp ý. Trẫm biết lòng ngươi không yên, lấy cớ tuổi già mà cầu tránh trách nhiệm. Song nghĩ vua Phiên nay đã trưởng thành, được ngươi là người ngay thẳng, không nghĩ đến ác cảm cũ, mà cùng nhau mài giũa thấm thía, hoặc giả biết tự hối mà sửa chữa lỗi trước, có thể khiến thành người tốt mà còn trông cậy được. Huống chi đại thế nước Phiên, tuy đã thanh bình, nhưng trong đó công việc liên miên phức tạp, chưa được đâu ra đấy. Ngươi nên trước hết lưu tâm về việc cần cấp của nước nhà, tuỳ nghi xếp đặt cho được ổn thoả, hà tất bận lòng vì sự hiềm nhỏ”(ĐNTL, VI, 76, 1822).

 

Thế mà sau khi ông nằm xuống, công đã trở thành tội:

Nay lũ ngươi Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân phàm những việc có quan hệ đến mềm dẽo để lấy lòng thuộc quốc, đề phòng chế ngự nước láng giềng thì nên cùng lòng bàn bạc làm cho đúng sự cơ, không nên khinh suất như thế. Nếu có điều gì nên làm, thì đừng chậm trễ lỡ việc. Lại nữa, trước kia, Nguyễn văn Thoại và Bùi Đức minh, rông rỡ làm liều, không giữ thể diện, đến nỗi tự chuốc lấy tội lỗi”…(ĐNTL,XI,284,1832)

 

Khi viên Hình tào Võ Du cáo gian Bảo Hộ Thoại lúc sinh thời ngày thường bắt dân Phiên đi lấy gỗ táu đem nộp mà không cấp tiền gạo, lại bắt dân Phiên làm việc tư, sửa đắp đường cái để đưa đám chôn cất vợ, Minh mệnh lập tức xuống chỉ:

Nay Thoại đã chết rồi, lại nghĩ ngày trước hãy có chút công lao ở Vọng Các, lòng trẫm không nỡ vậy gia ơn chỉ truy giáng Thoại xuống hàm chánh ngũ phẩm và đoạt lại chức tập ấm của con hắn, duy các sắc tặng phong cha mẹ thì được miễn cho. Còn tang vật mà Thoại đã sách nhiễu dân Phiên thì truy ra rồi lấy gia sản kẻ phạm tội ấy mà truy cấp cho dân  Phiên”(ĐNTL, XI, 88, 1832).

Đến khi có biểu của vua Chân lạp xác nhận:

Năm trước có việc đi lấy gỗ táu đem nộp thì dân Phiên đã lãnh tiền và gạo của nhà nước cấp rồi”

Biết là Thoại Ngọc Hầu bị vu oan nhưng Minh Mệnh vẫn cố tình kết án:

Nguyễn văn Thoại dẫu không can vào việc này, nhưng sai dân Phiên làm việc riêng sửa mộ, đắp đường cũng là đáng tội, vậy cứ chuẩn y nguyên án”(ĐNTL, XI, 89).

Bộ Hình nghị xử Võ Du tội đồ, nhưng Minh Mệnh lại nương nhẹ đặc cách cho cách chức, phát đi Cam Lộ gắng sức làm việc để chuộc tội.

Một người không có tội bị làm cho ra tội, ô uế danh tiết, tan cửa nát nhà, một kẻ vu oan đáng trị tội đến mức nặng nhất thì Minh Mệnh lại nương tay, cho thấy rõ việc làm của nhà vua không phải là vô tình, mà có chủ đích.

 

Ngao ngán trước trò đời bạc bẽo, Nguyễn văn Hầu khi viết về cuộc đời Thoại Ngọc Hầu đã dẫn lời Ngạc Xuyên viết năm 1943 để bày tỏ nỗi bất bình của mình:

Đọc đoạn cuối cùng trong tiểu sử, chúng ta bắt đau lòng trông thấy vết lọ mà kẻ nha thuộc bôi lên danh dự của ngài. Chúng ta bắt ngậm ngùi hồi tưởng lại công nghiệp vĩ đại của ngài, mà khi quá cố không được đấng chí tôn soi xét, rồi tự hỏi: “Oan hồn Ngài có ngậm tủi tự chốn tuyền đài chăng?”(NVH, Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu giang, NXB Trẻ, tr 302).

 

Than thở như thế là chỉ thấy tội của Võ Du mà không thấy đòn phép của Minh Mệnh, không phải đấng chí tôn không soi xét đến vụ án, cũng không phải đấng chí tôn dùng ngọn đèn tù mù để soi xét mà ngài dùng ý đồ của mình để xét vụ án. Thoại Ngọc Hầu bị xử oan như thế không phải vì  ông có lỗi, chuyện bịa đặt của Võ Du chỉ là cái cớ để Minh Mệnh triệt tiêu ảnh hưởng của Thoại Ngọc Hầu, ông có tội chỉ vì công nghiệp của ông quá lớn, ảnh hưởng của ông quá sâu ở cõi biên thuỳ, đó mới là điều Minh Mệnh quan tâm. Đọc đoạn tấu sau đây ta sẽ thấy rõ chân tướng đố kỵ của Minh Mệnh và triều đình nhà Nguyễn với Nguyễn Văn Thoại: “Quốc vương Chân Lạp là Nặc Chân đưa thư đến quan Bảo Hộ Nguyễn Văn Thoại nói rằng: “Nước ấy ông cháu cha con đời đời làm phiên thuộc, trên nhờ triều đình bồi đắp, giữ được nhân dân, dưới có Thoại trước sau bảo hộ, trừ nạn nước Xiêm, dẹp yên giặc Kế, kể công gấp mười Mạc Thiên Tứ, xin cắt đất ba phủ Lợi-ỷ bát, Chân sâm, Mật luật để báo đức của Thoại, cũng như việc cũ báo Mạc THiên Tứ.”

 Thoại đem thư ấy báo cho thành Gia Định biết. Thành thần đem việc tâu lên. Vua hạ lệnh cho  đình thần đều lấy ý riêng mình mà bàn kỹ  tâu lên. Bọn Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Hữu Thận cho rằng: “Đất đai Chân Lạp là bờ cõi của triều đình, Thoại dẫu có hiền tài và khó nhọc cũng là phận sự người bầy tôi mà thôi. Chân(Lạp)! sao được cắt đất để đền ơn riêng. Thoại sao được tự lấy làm công của mình mà nhận báo ơn”(TL,VII, tr.40).

 

Mặc dầu Thoại Ngọc Hầu chết đã ba năm, nhưng ảnh hưởng của Thoại Ngọc Hầu đối với An Giang, Châu Đốc, Hà Tiên càng ngày càng đậm, tận đáy lòng dân, người ta nhớ những con kênh ông đào, những ngôi làng ông lập, những ngôi chùa ông dựng, ảnh hưởng của ông không chỉ dừng lại nơi những cánh đồng xanh tốt, những ngôi chợ đông đúc mà còn bàng bạc nơi cõi tâm linh, đó là một lãnh địa đáng sợ mà Minh Mệnh với trực giác của người muốn bảo vệ cơ đồ không muốn để di hoạ làm nơi béo tốt cho con cháu Thoại Ngọc Hầu khai thác, khởi nghiệp, cho nên bằng mọi cách Minh Mệnh phải thi hành chính sách triệt hậu “thà phụ người chứ không để người phụ mình”.


Nguyễn Thiếu Dũng                                                                                                                                                       

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/09/2011(Xem: 3063)
Hòa thượng Thích Giác Lượng, nguyên là Trị Sự trưởng Trị sự Đoàn GHTGKSVN, Giáo Đoàn 3 tại Trung Phần từ năm 1971 cho đến khi vượt biên năm 1980. Viện trưởng Viện Hành Đạo GHPGTGKS Thế giới, 1993, Phó Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo, Đặc trách Giải Trừ Pháp Nạn, nhiệm kỳ 1997-2001, chủ nhiệm kiêm chủ bút Đặc San và Giai Phẩm Pháp Duyên (1983- 93), chủ bút tạp chí Nguồn Sống (1987- 91), chủ trương nhà xuất bản Nguồn Sống (từ năm 1988), thành viên Ban Chỉ Đạo kiêm chủ tịch Điều Hành Hội Đồng Hợp tác Tôn Giáo Bắc Cali, nhiệm kỳ 1994- 95 và 2000- 01, Chủ tịch Ủy Ban Quốc tế vận Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo cho Việt Nam, chủ tịch Phong Trào Phật giáo Yểm trợ PG Hòa Hảo Quốc nội (nay đổi tên là Phong trào Yểm trợ PGHH Quốc nội). HT Giác Lượng là một trong những nhân vật không ngừng đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam. HT đến Úc Châu lần này để tham dự buổi Đại Hội Giáo Hội PG Việt Nam trên Thế giới, được tổ chức tại Melbourne,và Đại Hội Liên Hữu Phật
10/08/2011(Xem: 42839)
Lịch Sử Việt Nam (trọn bộ) An Nam Chí Lược - Lê Tắc Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Lê Văn Hưu, Phan Chu Tiên, Ngô Sĩ Liên Đại Việt Thông Sử - Lê Quý Đôn Đại Việt Sử Lược_Khuyết Danh - Nguyễn Khắc Thuần Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Gia Văn Phái Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Quốc Sử Quán Triều Nguyễn Lam Sơn Thực Lục - Nguyễn Trãi biên soạn - Lê Thái Tổ đề tựa Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu - Cao Xuân Dục Thử Viết Lại Cổ Sử Việt Nam - Trương Thái Du Thiền Uyển Tập Anh - Lê Mạnh Thát Việt Điện U Linh Tập - Lý Tế Xuyên Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim Việt Sử Tiêu Án - Ngô Thời Sỹ Việt Nam Nam Phật Giáo Sử Ca - Thích Nhật Tân Việt Nam Thi Sử Hùng Ca (thơ) Thích Nhật Tân
10/08/2011(Xem: 6076)
Bài kệ "Hữu cú vô cú" đã có nhiều người dịch, ngoài các bản dịch còn có bản giảng giải của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi hầu hết các bản dịch cũng như lời giảng vẫn còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, nhất quán và thỏa đáng. Vì vậy tôi xin dịch và giảng lại bài này trong cách hiểu biết của tôi.
06/08/2011(Xem: 4949)
Vua Thái Tổ, thụy hiệu Thống Thiên khải vận thánh đức thần công duệ văn anh vũ khoan minh dũng trí hoằng nghĩa chí nhân đại hiếu Cao Hoàng Đế. Vua họ Lê, tên húy là Lợi, người làng Lam Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa. Cụ Tằng Tổ của vua tên húy là Hối, sau truy tôn là “Cao thượng tổ Minh Hoàng Đế”. Tính cụ chất phát ngay thẳng, giữ mình như người ngu, nhưng hiểu biết rất sâu xa, có thể biết trước những sự chưa thành hình. [tờ 7b] Nguyên trước ở thôn Như Áng, một hôm, cụ đi chơi, thấy đàn chim liệng vòng quanh trên một khoảng đất nơi dưới núi Lam sơn, trông hình như một đám người tụ hội. Cụ tự nghĩ: “Chỗ này tất là nơi đất lành”,
02/08/2011(Xem: 5383)
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục_Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
22/07/2011(Xem: 3241)
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ. Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
07/07/2011(Xem: 28369)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8466)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
16/06/2011(Xem: 14192)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
31/05/2011(Xem: 21904)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567