Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VI: Thành Xá Vệ

26/09/201020:59(Xem: 3968)
Chương VI: Thành Xá Vệ

Savatthi hay thành Xá Vệ là một thuật từ quen thuộc trong nhiều bản kinh Phật giáo đại thừa, như kinh A Di Đà, kinh Vu Lan Bồn….Bởi vì tại nơi đây, đức Phật đã thuyết nhiều bài pháp rất quan trọng.

1. Thành Xá Vệ (Sāvatthī) và tinh xá Kỳ Viên (Jetavana)

06-01files_php-content

Một phần quang cảnh tinh xá Kỳ viên (Jetavana) Ảnh: Tâm Bửu

06-02files_php-content

Nền hương thất của Phật

Khoảng 10 giờ, sau khi ngắm sông Hằng và mua sắm vài thứ cần dùng cho chuyến đi, chúng tôi đã rời khỏi Varanasi (Sarnath) đến Xá Vệ (Sāvatthī) đoạn đường đi bằng xe khoảng 6 tiếng đồng hồ, tương đối xa.

Savatthi hay thành Xá Vệ là một thuật từ quen thuộc trong nhiều bản kinh Phật giáo đại thừa, như kinh A Di Đà, kinh Vu Lan Bồn….Bởi vì tại nơi đây, đức Phật đã thuyết nhiều bài pháp rất quan trọng.

Khi đến nơi được cho là thành Xá Vệ, chúng ta không thấy được gì về dáng dấp của một kinh thành nguy nga, trù phú ngày xưa nữa, nếu không có những nền gạch cũ của các thánh tích Phật giáo còn sót lại. Nhờ nền gạch cũ của các tu viện Phật giáo nổi tiếng trong thành Xá Vệ từ thời đức Phật, chúng ta mới đoán chắc được vùng này từng là một kinh thành thời xa xưa.

Sāvatthī là tiếng Pāli được phiên âm là Xá Vệ, là kinh đô của nước Kiều Tát La (Kosala), do vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cai trị. Đất nước Kiều Tát La là một trong những quốc gia cường thịnh bậc nhất về chính trị, kinh tế lẫn quân sự vào thời đức Phật còn tại thế. Dân chúng trong thành đông đúc, hiền lương và rất là giàu có. Cũng trong kinh thành nguy nga tráng lệ này, nhiều sự kiện lịch sử trọng đại liên quan đến Phật giáo được diễn ra, mà khi mới nghe qua chúng ta ngỡ ngàng như một câu chuyện huyền thoại. Đặc biệt nhất chính là câu chuyện mua đất xây tinh xá cúng dường đức Phật của một phú gia tên là Cấp Cô Độc (Anāthapindika), khởi nguồn cho một đạo Phật thâm nhập vào trong xứ sở vốn nhiều giáo phái ngoại đạo đang ảnh hưởng lớn mạnh tại nơi này. Sau cuộc hội ngộ với đức Phật tại thành Vương Xá (Rājagaha) nước Ma Kiệt Đà (Magadha) và được đức Phật thuyết pháp giáo hoá, ông Cấp Cô Độc vui mừng khôn tả xiết xin được làm đệ tử của Ngài. Để tỏ lòng cung kính đức Phật, ông Cấp Cô Độc liền trở về thành Xá Vệ nước Kiều Tát La và muốn xây dựng ngôi tịnh xá để thỉnh Phật thuyết pháp. Mặc dù đã tìm kiếm khắp nơi trong thành Xá Vệ nhưng chưa có một khu đất nào vừa với nguyện vọng của ông. Cuối cùng, ông nhớ đến vườn cây của thái tử Kỳ Đà (Jeta), con vua Ba Tư Nặc, là nơi lý tưởng nhất, thích hợp nhất để thực hiện nguyện ước của mình. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào để mua được mảnh đất này, vì ông thừa biết rằng, thái tử Kỳ Đà không cần bất cứ gì để đổi lấy khu ngự uyển đẹp đẽ là nơi thư giãn hàng ngày của ông. Bởi quá nôn nóng cho công việc của mình, lại thêm một lòng kính trọng đức Phật đã thúc đẩy trưởng giả Cấp Cô Độc đến tìm gặp thái tử Kỳ Đà để thương lượng. Thái tử Kỳ Đà rất ngạc nhiên và quái lạ cho sự việc buôn bán này. Nhưng vì nể uy đức của ông Cấp Cô Độc, người thường bố thí cho dân nghèo và ủng hộ đắc lực cho ngân khố quốc gia, nên thái tử trả lời đùa cho qua câu chuyện: “ Trong khu vườn này, nếu ông trải vàng đến đâu thì tôi bán cho ông đến đó”. Chỉ cần một lời hứa suông của thái tử Kỳ Đà, ông Cấp Cô Độc cho người về kho lấy đủ số vàng để trải khắp khu vườn này, chẳng những thế mà nơi mỗi gốc cây đều có một nhúm vàng tương đương với chu vi của nó. Thái tử Kỳ Đà vô cùng kinh ngạc, khi thấy ông trưởng giả thực hiện theo lời đề nghị của mình mà không một chút do dự, điều này đã kích thích lòng tò mò của thái tử. Qua lời giải bày của ông trưởng giả Cấp Cô Độc, thái tử Kỳ Đà vô cùng thán phục đức Phật, một con người giác ngộ, một bậc vĩ nhân xuất hiện trên cõi Diêm Phù Đề, chỉ vì lợi ích cho chư thiên và loài người. Do đó, thái tử Kỳ Đà muốn góp phần trong việc xây dựng tinh xá cúng dường đức Phật, bằng cách dâng toàn bộ số cây trong vườn cho đức Phật. Vì là vườn của ông Cấp Cô Độc nhưng cây là của thái tử Kỳ Đà, nên trong kinh điển thường ghi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, để nói lên việc cúng dường hy hữu này.

Trong 45 năm hoằng hoá độ sanh, đức Phật đã trải qua 25 mùa mưa nơi thành Xá Vệ, riêng tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) đức Phật đã an cư đến 19 lần. Điều đó đủ cho chúng ta thấy được tầm quan trọng và uy thế của kinh thành Xá Vệ nói chung hay tịnh xá Kỳ Viên nói riêng đối với sự phát triển Phật giáo lớn lao biết dường nào!

2. Vai trò vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) đối với Phật giáo

Bên cạnh những đại thí chủ ủng hộ Phật pháp như Cấp Cô Độc thì vai trò của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) trị vì vương quốc Kiều Tát La (Kosala) cũng không kém phần quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo. Được sự hướng dẫn khéo léo của hoàng hậu Phật tử Mạc Lị (Mallika), người rất tin và thâm hiểu Phật giáo, vua Ba Tư Nặc trở thành một vị minh quân, cai trị dân chúng theo con đường của Phật giáo, vì vậy đất nước càng trở nên thịnh trị, thái bình, dân chúng an cư lạc nghiệp.

Nhờ sự bảo hộ của vua chúa, nên đạo Phật phát triển rất là mạnh mẽ, cơ sở Phật giáo được xây cất lên nhiều, từ vua quan cho đến thứ dân đều thấm nhuần giáo lý Phật đà. Những lời vàng ngọc của đức Phật dạy cho vua Ba Tư Nặc về cách trị dân được ghi lại tóm tắt như sau: “Những hành động thiện hay ác của chúng ta mãi theo chúng ta như bóng theo hình. Ðiều cần thiết mà chúng ta phải có là tình thương. Hãy xem thần dân như con ruột của mình, đừng áp bức họ, đừng tổn hại họ, trái lại hãy bảo vệ họ như gìn giữ tay chân của mình. Hãy sống với Chánh Pháp và đi mãi trên con đường lành. Ðừng nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống. Hãy gần gũi và thương yêu những kẻ nghèo khổ.

Ðừng nghĩ nhiều đến địa vị quốc vương và đừng nghe những lời nịnh hót. Không có một sự an lạc nào trong sự làm khổ mình bằng cách ép xác. Nên chú tâm vào Chánh pháp và áp dụng Chánh pháp trong cuộc sống. Chúng sanh đang bị bao quanh bởi những núi thành sầu khổ và chỉ có thể giải thoát bằng cách sống thật với chân lý. Tất cả những bậc trí giả đều ghê tởm những thú vui thấp hèn của xác thịt và trọn sống cho trí tuệ. Thử hỏi: làm sao chim chóc có thể đậu được trên một cây đang bốc cháy dữ dội? Chơn lý cũng vậy, không thể tìm thấy nó trong cuộc sống đầy dục vọng. Không nhận thức được như thế, dầu được xưng tụng là Thánh nhân cũng chỉ là kẻ dốt nát. Nhận thức được như thế là người thật có trí tuệ. Hãy dành nhiều thời giờ cho việc khai sáng tâm trí. Thiếu trí tuệ, cuộc đời trở nên vô nghĩa. Tất cả giáo nghĩa của các tôn giáo phải phụng sự cho trí tuệ loài người. Nếu không chúng không có lý do để tồn tại”.

Đây chính là đạo đức căn bản của người có nhiệm vụ cai trị muôn dân mà suốt đời vua Ba Tư Nặc ứng dụng để đem lại sự phồn vinh và thịnh trị cho đất nước Kosala.

3. Giảng đường Lộc Mẫu

Cách tinh xá Kỳ Viên (Jetavana) khoảng 5 km có một vườn xoài, và một bức tường đổ, được cho là khu giảng đường Lộc Mẫu, do nữ thí chủ Tỳ Xá Khư (Visakha) cúng dường. Nữ thí chủ Tỳ Xá Khư là một Phật tử giàu có đứng hàng thứ nhì ở thành Xá Vệ, chỉ sau Cấp Cô Độc. Bà rất tín mộ Phật và phát tâm làm một ngoại hộ thiện tri thức, cúng dường mọi nhu cầu cho tăng ni tu học tại kinh thành này. Có lần bà cầu xin Phật chấp thuận cho bà 8 điều nguyện ước. Nội dung của tám điều ấy đại khái như sau:

1. Trọn đời cúng dường Y trong mùa mưa cho các thầy Tỳ Kheo (ngoài 3 bộ Y chính).

2. Được cúng dường thực phẩm cho các thầy Tỳ Kheo mới đến.

3. Được cúng dường thực phẩm cho các thầy Tỳ Kheo đi xa.

4. Được cúng dường thực phẩm cho các thầy Tỳ Kheo bị bệnh.

5. Cúng dường thực phẩm cho những người nuôi các thầy Tỳ Kheo bị bệnh.

6. Được trọn đời cúng dường cháo sữa buổi mai cho chư tăng.

7. Thuốc men cho các thầy Tỳ Kheo bị bệnh.

8. Được cúng dường y tắm cho các Tỳ Kheo ni.

Đức Phật đã hứa khả và nói lên lời tán thán công đức bà: Lành thay! lành thay! Tỳ Xá Khư! Ngươi đã khéo xin Như Lai 8 điều trên với những lý do rất xác đáng và lợi ích. Cúng dường đến những người đáng cúng dường như gieo giống trên đất tốt và sẽ được gặt hái nhiều quả tốt. Trái lại nếu cúng dường cho những kẻ thiếu đạo đức, còn mang nặng dục vọng thấp hèn thì chẳng khác gieo giống trên đất xấu. Nắng dục vọng của người thọ lãnh sẽ làm khô chết giống công đức của người cúng dường.

Bà đã dành một khu vườn xoài lớn, thoáng mát và rộng rãi cho Phật và chúng tăng. Trong khuôn viên này, Bà xây dựng một ngôi đại giảng đường nằm ở phía Đông của khu vườn nên gọi là Đông Viên Tịnh Xá. Vì bà là người cư sĩ đức hạnh, mẫu mực, yêu thương giúp đỡ mọi người, nên được người dân trong thành tôn xưng là Lộc Mẫu (Migāramāta) nghĩa là tình thương yêu, chăm sóc dành cho mọi người hiền lành như nai mẹ thương con. Và đó là lý do vì sao ngôi đại giảng đường có tên là Lộc Mẫu.

Tại ngôi giảng đường này đức Phật cũng thuyết nhiều bài kinh quan trọng như kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh Tiểu Mãn Nguyệt... và nhiều đoạn kinh có đề cập đến bà. Bà sống trên 120 tuổi, qua đời sau đức Phật Niết Bàn khoảng 60 năm.

4. Cội Bồ Đề Ānanda

06-03files_php-content

Từ cổng chính tinh xá Kỳ Viên (Jetavana) đi vào khoảng 30m, phía bên phải, chúng ta nhìn thấy một cây Bồ Đề thật to nằm sát bên lối đi, có hàng rào bao bọc để bảo vệ, đó chính là cây bồ đề của Ngài A Nan Đà (Ānanda) trồng.

Chúng ta thường biết rất rõ về cây Bồ Đề linh thiêng tại thánh địa Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), cội cây mà đức Thế Tôn thiền định 49 ngày đêm và chứng vô thượng giác, nhưng ít người trong chúng ta biết đến cây Bồ Đề tại tinh xá Kỳ Viên, do Ngài A Nan chiết từ cây bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng. Tại sao lại là cây Bồ Đề từ chỗ Phật thành đạo mà không phải là cây Bồ Đề khác hay bất cứ loại cây gì để gây bóng mát? Việc này bắt đầu từ một lần nọ, trưởng giả Cấp Cô Độc đến tịnh xá Kỳ Viên thăm viếng đức Phật. Vào lúc đó, đức Phật đang đi du hoá nơi xa nên ông không gặp được đức Phật. Trong thời gian đức Phật không có mặt nơi tịnh xá Kỳ Viên, không riêng gì Cấp Cô Độc mà còn rất nhiều tín chủ đến chiêm bái và cúng dường vật thực đều thất vọng, buồn bã vì không đảnh lễ được đức Thế Tôn. Theo lời đề nghị của trưởng giả Cấp Cô Độc là làm sao đảnh lễ được đức Phật khi Ngài du hoá phương xa? Ngài A Nan đã thưa chuyện này lên đức Phật. Đức Phật dạy Ngài A Nan nên trồng một cây Bồ Đề lấy từ Bồ Đề Đạo Tràng. A Nan bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài hoan hỷ cho con đem giống Bồ Đề từ cây Bồ Đề nơi Thế Tôn đã thành đạo mang về đây trồng trước cửa tinh xá”. Đức Phật đồng ý: “Được lắm A Nan! Hãy trồng cây Bồ Đề tại đây và hãy nói với chư thiện nam tín nữ là ta luôn hiện diện dưới cội Bồ Đề này. Sau khi Ngài Mục Kiền Liên đem giống Bồ Đề về đến tinh xá, tôn giả A Nan mang nó trồng trước cổng Tinh Xá Kỳ Viên. Đức Phật toạ thiền dưới gốc cây này một đêm, để cây Bồ Đề được hấp thụ khí thiêng từ công đức của Phật. Từ đó cây Bồ Đề này được đặt tên là Ānanda.

5. Nền tháp tôn giả Vô Não và nền nhà Cấp Cô Độc

06-04files_php-content

Nền tháp tôn giả Vô Não (Angulimala) Ảnh: Tâm Bửu

06-05files_php-content

Nền nhà trưởng giả Cấp Cô Độc (Annathapindika) Ảnh: Tâm Bửu

Cách tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) không xa có hai nền tháp cũ gần nhau khoảng 100m, đó là nền nhà của ông Cấp Cô Độc (Anāthapindika) và nền tháp của tôn giả Vô Não (Angulimala). Riêng nền tháp của tôn giả Angulimala không còn nguyên vẹn như nền nhà của Cấp Cô Độc mà nó chỉ là một khối gạch cũ với nhiều đường hầm và lối đi lỏm chỏm đá gạch. Người quanh vùng thường gọi tháp này với tên địa phương là tháp Kacchi Kuti.

Trước khi trở thành sa môn Phật giáo, Angulimala là một tên sát nhân hung bạo tại thành Xá Vệ. Vua Ba Tư Nặc rất khổ tâm về tên giết người quái lạ chỉ vì ngón tay này. Thật ra, ban đầu Angulimala là một chàng thanh niên hiền lành chất phác, không làm tổn hại ai nên có tên là Ahimsā nghĩa là Vô Não. Vì bị đầu độc bởi một tà sư ngoại đạo nên Angulimala trở thành kẻ giết người lấy ngón tay làm vòng hoa đeo cổ, hầu mong đạt đạo khi vòng hoa đủ số 1000 ngón tay của một ngàn người. Chỉ thiếu một ngón tay thôi là đủ số lượng nhưng ông ta tìm mãi không ra được một người nào ngang qua khu rừng vắng. Do quá nôn nóng cho việc đắc đạo mù quáng của mình nên Angulimala trở về nhà toan giết mẹ cho đủ số một 1000 ngón tay. Nhờ duyên lành nhiều kiếp trong quá khứ, đức Phật dùng thần lực nhiếp hóa để ông khỏi mang tội đại nghịch giết mẹ. Sau khi ăn năn tội lỗi của mình nhờ giác ngộ được lời Phật dạy, Angulimala xuất gia theo Phật, tu hành tinh tấn, chẳng bao lâu chứng được thánh quả A La Hán, nhưng phải chịu nhiều quả báo do nghiệp ác đã gieo. Toàn bộ nội dung, tình tiết câu chuyện này được ghi lại trong kinh Angulimala, số 86, thuộc Trung Bộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/09/2018(Xem: 15306)
Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã tư của lưu lộ quốc tế thuộc Đông Nam Châu Á, và là nơi dừng chân của các thương buôn của vùng Địa Trung Hải. Từ một vị trí địa lý thuận lợi như thế, do đó các quốc gia trong vùng này đã thiết lập các mối quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, tôn giáo… qua hai con đường: Hồ Tiêu, tức là đường biển qua ngã Sri lanka, Indonesia, Trung Hoa, Việt; và đường Đồng Cỏ là đường bộ, xuất phát từ vùng Đông Bắc Á rồi băng qua miền Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa. Vì vậy các tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo gặp nhiều thuận lợi du nhập vào nước ta.
14/08/2018(Xem: 5019)
Trần Quý Cáp qua Đà Nẵng hoài cảm Châu Yến Loan Trần Quý Cáp là một trong ba lãnh đạo kiệt xuất của phong trào Duy Tân, một phong trào cách mạng rất sôi nổi của những năm đầu thế kỷ XX.
11/08/2018(Xem: 12952)
Sau Hiệp định Paris 1973, những người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Từ đó đến nay đã 45 năm, những “di chứng” chiến tranh vẫn còn trên mảnh đất này, và di chứng ấy còn trong tâm trí những người lính ở bên kia bán cầu. Bên cạnh việc hóa giải nỗi đau hiện hữu của chiến tranh, thì hóa giải những uẩn khúc trong lòng người cũng cho thấy nỗ lực phục thiện mà tất cả mọi người bất kể chiến tuyến đều hướng đến. Một buổi trưa đầu tháng 6 năm 2018, có bốn người cựu binh Mỹ tuổi chừng tám mươi tìm về ngôi chùa làng Bồ Bản (xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Trên xe bước xuống, ông Anderson ôm trước ngực một bức tượng Quán Thế Âm Bồ-tát màu trắng, trang nghiêm đi vào chùa. Đại đức Thích Mãn Toàn, người trụ trì ngôi chùa ra tiếp đoàn. Anderson hỏi Đại đức Thích Mãn Toàn đây có phải chùa Trường Khánh không? Đại đức Thích Mãn Toàn đáp phải, cả vùng chỉ một ngôi chùa này tên Trường Khánh, người dân thường gọi là chùa Bồ Bản. Ông Anderson chưa dám tin lời vị sư trụ trì mà v
06/08/2018(Xem: 7703)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
20/07/2018(Xem: 13867)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
23/06/2018(Xem: 5487)
Hơn 13h ngày 23/6, giáo sư, nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê, qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 85 tuổi.
21/03/2018(Xem: 17504)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
07/03/2018(Xem: 7074)
Ý đồ của Hốt-tất-liệt, dựa trên Phật giáo Tây Tạng để thống trị Trung Quốc không chỉ bằng vũ lực mà còn cả về tư tưởng, tôn giáo, chính trị xã hội; nếu suy luận này của chúng ta không lạc hướng, thế thì lịch sử chứng tỏ ý đồ này đã thất bại. Ý nghĩa của sự thất bại này thuộc phạm vi nghiên cứu của các nhà văn hóa và sử học.
07/03/2018(Xem: 6157)
Quân nhân Mỹ gốc Việt Hiền Trịnh trên tàu sân bay USS Carl Vinson.
01/01/2018(Xem: 42414)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]