Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trạng Thượng Sĩ (The Superior Person)

18/12/201011:29(Xem: 9007)
Hành Trạng Thượng Sĩ (The Superior Person)

THE WISDOM WITHIN
Teaching and Poetry of
the Vietnamese Zen Master
Tue Trung Thuong Si (1230-1291)

Translated and Commented by Nguyen Giac
Thien Tri Thuc Publications California 9010

HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ (The Superior Person)

The Superior Person

Tue Trung Thuong Sy (1230-1291) had several significant roles in thirteenth-century Vietnam: being a governor, he was one of the famous military generals who led resistance against three Mongolian invasions; being a layperson, he lived a life mixed with meditation, poetry and royal glory; and being a Zen master, he had a strong influence on the founder of the Truc Lam Zen School, which has become part of the Vietnamese culture. His religious name was Tue Trung, meaning The Wisdom Within. His title, given by King Tran Thanh Tong, was Thuong Sy, meaning The Superior Person.

The biography here of Tue Trung Thuong Sy – usually called Tue Trung, for short -- is based mostly on a text written by King Tran Nhan Tong (1258-1308), who became a monk and founded a Zen school in Vietnam.

Thượng Sỹ

Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230-1291) có nhiều vai trò quan trọng tại Việt Nam thế ký thứ mười ba: là một thống đốc, ngài là một trong các vị tướng nổi tiếng những người chỉ huy cuộc kháng chiến chống ba cuộc xâm lăng của Mông Cổ; là một cư sĩ, ngài sống một cuộc đời hòa lẫn với thiền định, thi ca và hào quang vương giả; và là một Thiền sư, ngài đã ảnh hưởng lớn đối với người sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng thiền đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam. Pháp danh ngài là Tuệ Trung, nghĩa là Trí Tuệ Bên Trong. Danh hiệu ngài, trao tặng bởi Vua Trần Thánh Tông, là Thượng Sỹ, có nghĩa là Bậc Cao Tột.

Tiểu sử nơi đây của Tuệ Trung Thượng Sỹ -- thường được gọi tắt là Tuệ Trung – dựa phần lớn vào một bản văn viết bởi Vua Trần Nhân Tông (1258-1308), người sau đó xuất gia và sáng lập một dòng Thiền tại Việt Nam.

Born in 1230, given the birth name of Tran Tung, Tue Trung was the elder son of Tran Lieu, who had the title of Kham Minh Tu Thien Thai Vuong. The people around Tue Trung were the most powerful in Vietnam at the time. King Tran Thanh Tong ceded the throne to Crown Prince Tran Kham, his Zen student who has been popularly known as King Tran Nhan Tong, and who later became a monk and founded the Truc Lam Zen School. Tue Trung was also the elder brother of Marshal Tran Hung Dao, the national hero worshipped by the Vietnamese people as a powerful saint.

Since childhood, Tue Trung was praised as brilliant and gentle. As the governor of Hong Lo (now Hai Duong Province), he repelled the Mongolian invaders twice, and got promoted as commander of the Thai Binh Seaport.

Interested in Buddhism from a young age, he was a man of character. After many conversations with Zen Master Phuoc Duong Tieu Dao, he understood the profound meaning, revered this old monk as teacher, and entered the joy of meditation every day. Uninterested in fame and power, he retired to the land given by the king, where he renamed the village of Tinh Bang as Van Nien.

Sinh năm 1230, được đặt tên là Trần Tung, Tuệ Trung là con trưởng của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương Trần Liễu. Những người chung quanh Tuệ Trung là những người quyền lực nhất Việt Nam thời đó. Vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Khảm, người theo học Thiền với Tuệ Trung và sau thường được biết với tên gọi là Vua Trần Nhân Tông, và là người về sau xuất gia và sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm. Tuệ Trung cũng là anh cả của Tướng Trần Hưng Đạo, vị anh hùng quốc gia được dân tộc Việt Nam thờ như một vị thánh uy quyền.

Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minh và dịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.

Chuộng Phật Giáo từ thuở nhỏ, ngài là người có cá tính. Sau nhiều lần tham vấn Thiền Sư Phước Đường Tiêu Dao, ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy, và lấy thiền duyệt làm cái vui hàng ngày. Không ưa công danh, ngài lui về đất vua phong tặng, và đổi tên làng Tịnh Bang lại là làng Vạn Niên.

He lived the life of a lay practitioner, mixed with common people, planted the seeds of dharma, and helped the learners. Those who came to ask for his dharma advice were all shown the profound meaning, and given some useful ways to calm the mind. His responses, however, were unique, flexible and different.

King Tran Thanh Tong, hearing rumors about his spiritual conversations, sent an envoy to invite him to the royal palace for dharma talks. The Zen master came, and gave explanation on the Way with words so profound and enlightening. Thus the king respected him as the Elder Dharma Brother, and gave him the title of the Superior Person.

One day, the Queen Mother held a royal banquet, and showed surprise when she saw Tue Trung eating meat.

“You practice meditation, and now you eat meat. How can you become Buddha?” asked the king’s mother.

“Buddha is Buddha,” replied Tue Trung. “And I am what I am. I don’t need to be Buddha. And Buddha doesn’t need to be me. You probably heard the words from old sages, ‘Manjusri is Manjusri; enlightenment is enlightenment.’”

Ngài sống cuộc đời của một cư sĩ, hòa lẫn với dân thường, gieo hạt giống pháp, và dìu dắt các học nhân. Những người tới hỏi pháp ngài đều được chỉ chỗ cương yếu, và nói về những cách an tâm. Tuy nhiên, các giảng dạy của ngài lại rất độc đáo, linh động và khác lạ.

Vua Trần Thánh Tông, nghe đồn về các pháp thoại đầy thiền vị của ngài, đã gửi một sứ giả tới thỉnh ngài vào cung để thuyết pháp. Thiền Sư Tuệ Trung tới, và giảng pháp với ngôn ngữ thâm sâu và giác ngộ. Vua mới tôn ngài là Sư Huynh, và cho ngài tước hiệu Thượng Sỹ.

Một hôm, Thái Hậu mở tiệc hoàng gia, và ngạc nhiên khi bà thấy ngài Tuệ Trung ăn thịt.

Thái Hậu hỏi, “Anh tu thiền, và bây giờ anh ăn thịt. Làm sao mà thành Phật nổi?”

Ngài Tuệ Trung đáp, “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật, Phật không cần làm anh. Thái Hậu chẳng nghe cổ đức nói, ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”

After the Queen Mother died, the king made a vegetarian offering ritual in the royal palace. In the ceremony, the king asked the honorable teachers each to make a short poem showing their explanation of Buddhism.

Taking paper and ink from King Tran Thanh Tong, Tue Trung wrote the following poem.

Seeing and understanding… Now I show my seeing and understanding,
just like rubbing the eyes to make monster.
After the rubbing is done and the monster gone,
all things shine bright unrestrictedly.

The king read the poem, and wrote down below.

All things, shining bright unrestrictedly,
also do the rubbing to make monster.
When you see monster, and don’t cling to it as monster,
that monster will vanish itself.

Tue Trung read and showed satisfaction.
Later, hearing the news that the king fell sick, Tue Trung wrote a mail to voice his concern. The king read the mail, and replied as follows.

Sau khi Thái Hậu từ trần, vua cúng chay ở cung điện. Nhân lễ khai đường, vua thỉnh các vị tôn túc mỗI vị làm một bài kệ ngắn để nói kiến giải về Đạo Phật.

Nhận giấy mực từ Vua Trần Thánh Tông, Tuệ Trung viết bài kệ sau.

Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.

Nhà vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:

Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.

Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ:

Feeling the heat,
I am sweating all over the body;
However, the original diaper when my mother brought me into life is still dry.

Tue Trung read and showed sadness. Then the news came that the king got worse. Tue Trung urgently arrived in the capital, but King Tran Thanh Tong had already passed away.

One day, King Tran Nhan Tong asked him, “How can people break free from bad karma, when they have habits of eating meat and getting drunk?”

Tue Trung answered, “In case someone is standing and doesn’t know that the king suddenly is walking past behind him, and he throws something that hits the king. Is he scared? Is the king angry? Those two things are not related to each other. You should know that.”

Then Tue Trung continued with his two short poems here.

Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.

Tuệ Trung đọc, buồn bã. Rồi có tin nhà vua bệnh nặng thêm. Ngài Tuệ Trung khẩn cấp về kinh đô, nhưng Vua Trần Thánh Tông đã băng hà.

Một hôm, Vua Trần Nhân Tông hỏi ngài:
“Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?”

Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
“Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.”

Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy.

All things are impermanent.
Having a doubt in mind will make a sin manifested.
Since the beginning of time, there has not been a thing.
Neither a seed nor a bud.

When you face the scenes every day,
just know that all scenes come from your mind.
Realizing that the mind and scenes are originally empty,
you will see the enlightenment in all places.

The asker, King Tran Nhan Tong, said, “Thus, for what reason we have to keep the precepts strictly?”

Tue Trung smiled in silence. King Tran Nhan Tong insisted an answer. Tue Trung made another two short poems.

Keeping precepts and having patience
only invite sinfulness, not merit.
If you want to know beyond both sinfulness and merit,
just live beyond both keeping precepts and having patience.

Just like someone climbing the tree,
you are looking for danger, not aware that you are safe now.
If you don’t climb the tree,
how could the wind and moon affect you?

Tue Trung then told the king, “Don’t tell that to bad people.”

Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
*
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.

Vua Trần Nhân Tông hỏi tiếp, “Như vậy, công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”

Thượng Sĩ cười không đáp. Vua lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn định đó:

Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
*
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?

Ngài Tuệ Trung lại dặn nhà vua, “Chớ bảo cho người không ra gì biết.”

One day, being asked by King Tran Nhan Tong about the essence of Zen, Tue Trung replied, “Reflect inwardly to see the essence of yourself. Don’t follow other ways.”

King Tran Nhan Tong suddenly understood the path to go, and from then on revered Tue Trung as teacher.

Later, feeling a little sick, and not wanting to stay in his own room, Tue Trung chose to stay in the hall of Duong Chan Trang (Nurturing Truth Ranch). He put a wooden bed in the center of the emty hall, lay down on his right side, and closed his eyes.

His wife, companions, and servants cried out loud. Tue Trung opened his eyes, sat up, and asked for water to wash his hands and rinse his mouth.
Then he said, “Birth and death are natural. Why do you cry and feel resentful, making noise around my true nature?” After those words, Tue Trung died gently.

Born in 1230, and died in 1291, he only had few decades to live a life of a great military general, a great poet, and a great Zen master; however, his impact on Vietnamese history has been immense and lasted for many centuries.

Một hôm, Vua Trần Nhân Tông hỏi về yếu chỉ Thiền Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ đáp:
“Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.)

Vua Trần Nhân Tông hốt nhiên hiểu được lối đi, và từ đó thờ ngài Tuệ Trung làm thầy.

Sau có chút bệnh, không muốn ở trong phòng thất, ngài Tuệ Trung quyết định ra ở chính đường của Dưỡng Chân Trang. Ngài kê một giường gỗ giữa nhà trống, nằm nghiêng qua phải theo thế kiết tường, nhắm mắt lại.

Thê thiếp và người hầu khóc rống lên. Tuệ Trung mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồI quở nhẹ, “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói xong, Tuệ Trung an nhiên thị tịch.

Sinh năm 1230, và từ trần năm 1291, ngài chỉ có vài thập niên để sống cuộc đời của một đại tướng, một đại thi sĩ, và một đại Thiền sư; tuy nhiên, ảnh hưởng của ngài trên lịch sử Việt Nam cực kỳ lớn lao, và kéo dài nhiều thế kỷ.

King Tran Nhan Tong was the Dharma Heir of Tue Trung Thuong Sy. The king later became a monk, and founded the Truc Lam Zen School, which quickly grew popular then, went up and down with social changes in over 700 years, and has been revived to be the largest Zen school now in Vietnam.

We should have a comment here. Some words from Tue Trung above were not in line with the Buddhist teachings that his askers learned. The Queen Mother and King Tran Nhan Tong were taught to practice vegetarianism, to hate the evil, and to grasp the good. If you follow a routine and don’t truly live the profound meaning, you will become a robot. Tue Trung just tried to take them out of the land of robots.

Also, some words needed to be added here to explain about keeping a same style in this book. All the Vietnamese poems and koans here are translations by Zen Master Thich Thanh Tu, while all other information has been cross-checked with other sources. In case readers want to have an overview on Vietnamese Zen first, please read The Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters. (link: http://thuvienhoasen.org/ZenAncientMasters.htm)

Vua Trần Nhân Tông là người nối pháp của Tuệ Trung Thượng Sỹ. Vua sau đó xuất gia, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm, và thiền phái này mau chóng phát triển và hưng thịnh lúc đó, rồi thăng trầm với các biến đổi xã hội trong 700 năm qua, và rồi được hồi phục để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.

Nên có một lời bình nơi đây. Ngài Tuệ Trung nói vài lời ngoài giáo nghĩa mà những người hỏi từng học. Thái Hậu và Vua Trần Nhân Tông được dạy phải ăn chay, ghét ác và ưa thiện. Nếu bạn làm theo một thói quen và không thực sự sống được diệu nghĩa, bạn sẽ trở thành một người máy rô-bô. Ngài Tuệ Trung muốn đưa họ ra khỏi vùng đất của rô-bô.

Có vài lời cần thêm nơi đây. Để thống nhất văn phong, tất cả các công án, thơ kệ Việt ngữ trong sách này là từ một nguồn, các bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ, trong khi mọi thông tin khác đều đối chiếu với các nguồn khác. Trường hợp độc giả muốn có cái nhìn tổng quan về Thiền Việt Nam trước, xin mời đọc cuốn The Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters. (link: http://thuvienhoasen.org/ZenAncientMasters.htm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 26579)
Từ khi được hoàn thành đến nay, Việt Điện U Linh Tập đã gây một tiếng vang không nhỏ trong giới văn học Việt Nam, mặc dầu chưa được khắc in một cách chính thức, tác phẩm đã được sao đi chép lại nhiều lần, đã được các học giả tiếm bình, tăng bổ, tùng biên, trùng bổ, đã trở thành những bản thần tích của nhiều thần từ miền trung châu và nhất là đã cung cấp nhiều tài liệu cho lịch sử. Một tác phẩm như vậy là một tác phẩm đã có nhiều người đọc, có ảnh hưởng lớn và cần phải được chúng ta chú trọng đến hơn. Phần dẫn nhập này sẽ đề cập đến soạn niên của tác phẩm, tác giả và những bản chép tay, nội dung, giá trị và ảnh hưởng của Việt Điện U Linh Tập.
09/04/2013(Xem: 14746)
Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách Thiên Quan, từ sao Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi sửu, cùng một phận dã tinh truyện với nước Ngô. Cõi nam là Việt môn, có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt, cho nên gọi là Bách Việt. Bởi vì miền này ở phía nam Dương Châu, nên lại gọi là Nam Việt. Vùng đất từ núi Ngũ Lĩnh xuống phía nam thuộc về Nam Việt. An Nam là miền đất ở phía nam nước Việt nay là quốc hiệu thường gọi.
08/04/2013(Xem: 7303)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
28/03/2013(Xem: 4218)
Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay. Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện.
07/01/2013(Xem: 3709)
Thưa Ngài Chủ Tịch, “Quốc Gia Hưng Vong, Thất Phu Hữu Trách,” Cha Ông chúng ta đã dạy Bần Tăng từ thuở tấm bé cho đến ngày nay và hơn nửa thế kỷ qua Bần Tăng đã thực hành hạnh cứu khổ, ban vui (Từ Bi)theo lời Phật dạy. Từ khi Miền Bắc thống nhất đất nước, Miền Nam thua trận biến thành “Dân Oan”, oán hận ngút trời, hứa hẹn một cơn binh lửa nồi da xáo thịt mới, sau 39 năm Miền Bắc không thực sự thành công trong việc an dân sau nhiều năm chinh chiến.
17/12/2012(Xem: 4225)
Chúc tất cả mọi giới người đã đến Mừng đồng bào tham dự buổi hôm nay Lễ khai trương cơ sở quan trọng nầy Khánh hỷ của những tấm lòng yêu nước. Thành sự thật đã đạt thành mong ước Văn hóa mình đã tụ điểm nơi đây Phòng tuyến đầu đã chiến thắng từ đây Chính nghĩa đã vươn cao thành sức mạnh Phủ đáp lại tình hiến dâng: Hữu Chánh
14/11/2012(Xem: 6195)
Để có thể nắm vững hơn về Phật giáo trong tình trạng hiện nay, có thể chúng ta cần nói thêm về lịch sử Phật giáo và ba truyền thống chính là Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Kim cương thừa. Ông có thể giải thích thêm vài nét chính về các truyền thống ấy hay chăng ? Ta hãy bắt đầu với Phật giáo Nguyên thủy ?
26/07/2012(Xem: 6867)
Thầy tôi khuất bóng nay đã 46 năm. Tôi cũng đã trãi qua mấy chục năm trường, đem tài sức hữu hạn của mình chung lo hành đạo và hóa đạo, cho đến bây giờ tuổi gần bảy mươi, mà ân hưởng của Thầy tôi ngày nào vẫn thấy còn đầm ấm bên lòng. Tình Thầy trò ngoài cái nghĩa là tình thiện tri thức được xông ướp trong mùi hương đạo, còn có nghĩa của một thứ tình gắn bó vô túc duyên không sao nói hết được.
09/07/2012(Xem: 5529)
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Đồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Đông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.
29/01/2012(Xem: 14939)
Việt Nam, là một quốc gia nằm trong vùng Đông Nam Châu Á, Bắc giáp với Trung Hoa, Đông và Nam giáp với Biển Nam Hải, phía Tây giáp với Lào và Campuchia; diện tích: 329.556 km2, dân số 70 triệu người; mật độ dân cư: 224 người/km2; dân số dưới 15 tuổi: 39, 2%; tuổi thọ trung bình: 62,7 tuổi; tử suất trẻ em: 59%; học sinh cấp Trung học : 46,9%; tôn giáo chính: Phật giáo ( những tôn giáo nhỏ khác là Khổng, Lão, Cao Đài, Hòa Hảo, Ky Tô, Tin Lành…); thể chế chính trị: Cộng Sản; Lao động (nông & ngư nghiệp): 73% dân số; truyền thông đại chúng: 7 triệu máy radio, 3 triệu máy truyền hình, Nhật báo Nhân Dân phát hành 200.000 tờ mỗi ngày; thu nhập bình quân đầu người 113 đô la.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567