Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Giới Thiệu của TK Khantipalo Thera

01/06/201200:15(Xem: 10220)
Lời Giới Thiệu của TK Khantipalo Thera

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ÚC ĐẠI LỢI

(History of Buddhism in Australia)


Nguyên tác: Paul Croucher
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Tu Viện Quảng Đức ấn hành 2012
flowerba

Lời giới thiệu


của TK. Khantipalo Thera


KhantipaloTheraPhật Giáo đã lan truyền khắp Á Châu một cách chậm chạp, do bị hạn chế những khoảng cách địa lý lớn và những khó khăn trong việc ấn hành kinh sách. Tuy nhiên, sự phát triển của tôn giáo này cũng rất đáng chú ý, từ A Phú Hãn (Afghanistan) đến Nhật Bản, và từ Mông Cổ đến Nam Dương (Indonesia). Những tài liệu lịch sử ở các nước khác nhau như Tích Lan (Sri Lanka), Tây Tạng (Tibet) và Nhật Bản viết rằng các Tăng Ni của Phật Giáo du hành đã gây được sự quan tâm của triều đình ở những xứ này, và tiếp theo sau là sự quy y theo Phật Giáo của những người thuộc giai cấp thượng lưu.

Chỉ ở Trung Hoa khi được truyền vào, Phật Giáo gặp nền văn minh đã đạt trình độ cao rồi, tiếp đó Phật Giáo cũng đã lan tỏa khắp nơi, đặc biệt là trong đời nhà Đường (T’ang dynasty). Sự kiện này có thể được xem là sự phát triển chính thức của Phật Giáo, nhưng còn có nhiều hình thức truyền bá khác, có tính cách dân dã hơn, qua các Tăng Ni và Phật tử tại gia làm việc cách xa triều đình và những hoạt động của họ không được ghi nhận lại trong sử sách. Sự truyền bá Phật Giáo ở Úc Châu cũng giống sự truyền bá này, nhưng có một điểm khác biệt quan trọng là trong thời đại của chúng ta, sách được sản xuất một cách dễ dàng và rẻ tiền. Trước thập niên 1970, như tác giả Paul Croucher cho thấy, đa số những người Úc chú ý đến Phật Giáo đã chỉ được biết về Phật Giáo qua những cuốn sách, mà những cuốn sách này thì không giải đáp được những câu hỏi quan trọng của họ.

Các tín đồ Phật Giáo Úc đầu tiên và những người có cảm tình với Phật Giáo thường được thu hút qua phương diện duy lý – nhân bản của giáo lý Phật Giáo hay ngang qua sự trình bày đầy nghệ thuật của nền giáo lý này. Điều này có nghĩa là những phương diện lớn khác của Phật Giáo đã bị bỏ quên hoặc bị hiểu lầm. Chẳng hạn như giáo lý luân hồi đã bị những người quá duy lý xem là một giáo thuyết Á Châu không cần thiết, cùng với điều này, tất cả các nghi lễ đều bị chê là dấu hiệu của sự thoái hóa, và những nghi thức Phật Giáo thông thường như cúi lạy để tỏ lòng tôn kính, sự khiêm hạ và sự biết ơn đã bị xem là những việc không quan trọng được đặt thêm vào triết lý của Đức Phật. Pháp môn Thiền của Phật Giáo và công dụng giải trừ tính kiêu căng ngã mạn của những pháp này cũng bị hiểu sai, và được dành cho rất ít thời giờ thực hành. Thật vậy, Phật Giáo vẫn chỉ là những lời nói để cho người ta trích dẫn khi cần thiết chứ không dẫn tới việc nhiếp phục tâm tán loạn. Kết quả là cuốn sách này bao gồm cả những giai đoạn đáng buồn của lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu. Có điều đáng khen là tác giả, tuy là tín đồ Phật Giáo, đã không che đậy những giai đoạn này, vì ông chỉ quan tâm tới tính chính xác về mặt lịch sử chứ không tô điểm thêm cho những sự kiện.

Tôi nhớ lại hai sự việc mà tôi đã gặp, có thể minh họa khuynh hướng sai lầm trong thời kỳ đầu của Phật Giáo Úc châu. Thứ nhất là có lần một người ồn ào, thích coi truyền hình và không bao giờ tham thiền, bảo đảm với tôi là người ta có thể đắc Niết Bàn vào lúc qua đời. Tất nhiên tôi mong người này nói đúng, nhưng trong tận thâm tâm, tôi thấy ý kiến này không phù hợp với lời dạy của Đức Phật rằng muốn chứng đắc Niết bàn, người ta cần phải tinh tấn tu tập. Sự việc thứ hai là trong một cuộc họp của một tổ chức Phật Giáo mà tôi được mời tham dự, phiên họp kéo dài từ tám giờ đến mười một giờ đêm, mọi người cãi nhau dữ dội, và điều đáng ngạc nhiên nhất là những người tham dự không có ai được mời một ly nước nào cả. Vì đã sống ở Thái Lan nhiều năm, một xứ mà người dân rất hiếu khách, nên tôi đã ngạc nhiên vì sự vô tâm này. Tất cả mọi pháp môn tu tập theo giáo lý của Đức Phật đều bắt đầu với hạnh bố thí, hay lòng từ bi quảng đại, và nếu hạnh bố thí không phải là một phần của đời sống tu tập thì người ta khó có thể thành tựu được bất cứ pháp môn nào khác.

Trong thập niên 1980, quang cảnh đã thay đổi đáng kể, ngày nay có hơn tám mươi ngàn tín đồ Phật Giáo ở Úc Châu, thuộc hơn một trăm tổ chức Phật Giáo khác nhau. Các vị Thầy Phật Giáo có khả năng đã định cư ở xứ này, và các nhóm đệ tử đã tụ tập xung quanh các vị, vì vậy bây giờ đa số các tín đồ chú tâm vào việc học và thực hành giáo lý một cách sâu xa. Tương lai tốt đẹp của Phật Giáo ở Úc Châu tùy thuộc vào việc sẽ có bao nhiêu vị Thầy bản địa sẽ xuất hiện ở xứ sở rộng lớn này để chiếu ánh sáng Giáo Pháp cho những người có mắt được thấy.

Viết tại Chùa Buddha Dhamma, tháng Mười năm 1988.

Tỳ Kheo Khantipalo Thera
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 7100)
Hạnh phúc tôi nhỏ nhoi Một góc đời xa lạ Như một thoáng môi cười Ngọt ngào xanh mắt lá.
06/10/2010(Xem: 5097)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáo và phục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
03/10/2010(Xem: 7206)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
03/10/2010(Xem: 10360)
Thiên Thai giáo quán tông, Thiên Thai một tông chuyên xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm luận ghi rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả xa bái Long Thọ làm sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ thứ hai; Huệ Văn truyền xuống Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư truyền cho Trí NghiễmĐức An (Trí Giả), Trí Giả là tổ thứ tư. Lấy nhất niệm hoằng truyền 3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở quan quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai ở Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai.
26/09/2010(Xem: 8173)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
26/09/2010(Xem: 7862)
Phật Quốc Ký Sự
24/09/2010(Xem: 7809)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế đượcnhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn cònđược truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay. Tại NhậtBản hai tông Zen, tức Thiền tông, còn tồn tại đến nay làtông Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Ðộng (Nhật: Soto). TạiViệt Nam thì trừ vài chùa là thuộc tông Tào Ðộng còn lạiđều thuộc tông Lâm Tế. Như vậy nói tới Thiền tông thìkhông thể không biết về đường lối tu hành do tổ Lâm Tếtruyền lại.
23/09/2010(Xem: 6333)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
22/09/2010(Xem: 15937)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dung và tôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]