Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đường Tăng Thỉnh Kinh

09/04/201313:52(Xem: 13683)
Đường Tăng Thỉnh Kinh


Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh

Võ Đình Cường

Sàigòn 2002
---o0o---

LỜI GIỚI THIỆU (^)

(Lần tái bản năm 2000)

Quyển sách này được tác giả VÕ ÐÌNH CƯỜNGbiên soạn, nhà Xuất bản HƯƠNG ÐẠO ấn hành lần thứ nhất vào năm 1960 với tựa đề là HUYỀN TRANG.

Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi vượt qua địa hình hiểm trở, bao vùng khí hậu khắc nghiệt, độc hại cũng như bao thử thách do con người, ma chướng gây nên. Nhờ niềm tin dũng mãnh, tài năng siêu việt và ý chí kiên cường, Ngài đã vượt thắng tất cả.

Ðất nước Trung Quốc tự hào về vị cao tăng sự nghiệp thỉnh kinh của Ngài là một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Các vị học giả, các nhà nghiên cứu trên thế giới đều nhất trí đánh giá Ngài không những là một trong các nhà thám hiểm bậc nhất mà còn là một nhà ngôn ngữ học thiên tài. Trước đây, nhà văn Ngô Thừa Ân của Trung Quốc đã đưa những nhân vật tưởng tượng, hư cấu như TÔN HÀNH GIẢ, SA TĂNG, BÁT GIỚI vào truyện TÂY DU KÝ với dụng ý tạo sự hấp dẫn nhằm dễ dàng phổ biến sâu rộng trong quần chúng. Tuy nhiên, ý niệm tốt đẹp này cũng có mặt phản tác dụng vì đã tạo ra sự ngộ nhận trong quần chúng về Ngài HUYỀN TRANG. Sự ngộ nhận được nhân lên khi khán giả màn ảnh nhỏ truyền hình được xem bộ phim truyện TÂY DU KÝ nhiều tập do các nhà làm phim Trung Quốc thực hiện - bà DƯƠNG KHIẾT- đạo diễn. Bộ phim này đã đạt đỉnh cao nghệ thuật, làm nổi bật một TỀ THIÊN ÐẠI THÁNHcó nhiều thần thông quán thế, trí tuệ siêu phàm; còn ÐƯỜNG TAM TẠNG, một nhân vật lớn của lịch sử, lại trở thành hình tượng thứ yếu, thu động và có lúc phạm sai lầm.

Nhân lần tái bản này, chúng tôi đã đề nghị và được tác giả chấp nhận đổi tựa đề quyển sách là ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH cho phù hợp với từ thường dùng của quần chúng về Ngài HUYỀN TRANG,một nhân vật vĩ đại của giới Phật giáo cũng như giới học giả thế giới.

Trân trọng xin giới thiệu cùng chư độc giả.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 01 năm 2000
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM.


LỜI CẢM TẠ CỦA SOẠN GIẢ (^)

(Nhân lần xuất bản thứ nhất, năm 1960)

Trong khi cuốn Huyền Trang này sắp lên khuôn thì chúng tôi được Thượng tọa Thích Thiện Siêu (1) từ Nha Trang gởi vào cho chúng tôi một tập tài liệu rất đầy đủ về Ngài Huyền Trang mà ông Lương Khải Siêu, một học giả trứ danh của Trung Hoa, đã sưu tầm và đã được Thượng tọa Thiện Siêu dịch ra Việt văn. Trong tập tài liệu có ghi rõ năm tháng sinh, mất và những biến chuyển lớn nhỏ trong đời Ngài, những tên nước, dặm đường mà Ngài đã đi qua, những kinh luận mà Ngài đã học và đã dịch những tài liệu này giúp cho chúng tôi đỡ băn khoăn bối rối trước những năm tháng, niên hiệu, địa danh, dặm đường mà mỗi sách nói một khác. Chẳng hạn như về tuổi thọ của Ngài, có sách bảo là Ngài tịch năm 56 tuổi, có sách là 65 tuổi, có sách là 61 tuổi, có sách 69 tuổi ... Chúng tôi rất vui mừng nhận thấy những niên kỷ, địa danh, những biến chuyển của đời Ngài trong tập Huyền Trang của chúng tôi đem so với trong tập tài liệu nghiên cứu rất công phu của Lương Khải Siêu hầu hết đều đúng cả. Tuy thế chúng tôi không đồng ý hẳn với ông Lương Khải Siêu ở một vài điểm. Chẳng hạn như theo ông Lương Khải Siêu thì Ngài Huyền Trang khỏi hành Tây du vào năm Trinh Quán nguyên niên mới đúng. Nhưng theo chúng tôi thì Ngài khởi hành Tây du vào năm Trinh Quán thứ ba, và chúng tôi có một tài liệu quý báu để quyết chắc như thế; đó là tờ biểu chính tay Ngài Huyền Trang viết cho vua Ðường Thái Tông, khi ở Vu Ðiền để báo tin Ngài về nước. Trong tờ biểu có câu: "Tôi đã lấy ngày tháng tư năm Trinh Quán thứ ba mạo phạm hiến chương, lẻn đi Thiên Trúc ..." (2) Không lẽ Ngài khởi hành đi từ năm Trinh Quán nguyên niên mà Ngài lại viết trong tờ biểu là năm thứ ba? Và như thế vì lý do gì?

Về địa danh ở Ấn Ðộ thì mỗi soạn giả Trung Hoa phiên âm một cách, có nhiều khi rất khó đọc, khó nhớ. Ðể độc giả có một ý niệm rõ ràng về địa thế những xứ ở Ấn Ðộ, chúng tôi đã lựa nhưng địa danh thông thường mà độc giả đã từng nghe, từng quen biết qua các kinh điển Phật giáo. Ðịa danh nào không có trong kinh điển, thì chúng tôi lựa các tên nào phiên âm sát với giọng đọc Ấn Ðộ nhất. Ngoài ra, những địa danh nào không cần thiết thì chúng tôi bỏ qua không nói đến để khỏi làm rối trí độc giả.

Kèm theo tập tài liệu quý báu của ông Lương Khải Siêu nói trên, Thượng tọa Thích Thiện Siêu lại còn gởi cho chúng ta một bản dịch bài Tựa "Ðại Ðường Tam Tạng Thánh Giáo" của Ðường Thái Tông (3). Bài tựa này trước kia ông Ðông Châu đã có dịch đăng trong Nam Phong số 143 tháng 10 năm 1929, nhưng chúng tôi thấy chưa vừa ý vì có nhiều chỗ không được sáng sủa. Nay bài tựa ấy được Thượng tọa Thích Thiện Siêu, hợp tác cùng Thượng tọa Thích Trí Thủ (4) gia công dịch lại, và gởi cho, chúng tôi vô cùng sưng sướng và cảm động. Chúng tôi cảm động và sung sướng vì nhận thấy công việc biên soạn của chúng tôi đã có được một tiếng dội nhanh chóng và quý báu; và vì cảm thông được, qua cử chỉ trao tặng tài liệu ấy, tất cả một đức tánh hoan hỷ trước những công tác có lợi ích chung, mà chỉ những vị tận tụy với Phật Pháp như quý Thượng tọa mới có được.

Chúng tôi rõ biết quý vị Thượng tọa không muốn được (hay bị) nhắc nhở đến nhiều, vì thế nên chúng tôi dừng bút ở đây. Nhưng trong lòng chúng tôi vẫn còn ân hận vì chưa nói hết được sự cảm tạ chân thành của mình.

VÕ ÐÌNH CƯỜNG
Saigon, ngày 7-5-1960

Chú thích:

(1) Nay là Hòa thượng Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni GHPGVN.
(2) Xem bài biểu của Ngài Huyền Trang.
(3) Xem bài tựa trong tập này
(4) Tức cố Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN nhiệm kỳ I


Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 13853)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 13326)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3153)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 14658)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 3656)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 11959)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 3818)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 5922)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 7322)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 16059)
Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567