Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Sử Phật Giáo Bangladesh

05/10/201200:38(Xem: 3089)
Lược Sử Phật Giáo Bangladesh


LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO BANGLADESH

Lionel Wijesiri - Minh Phú dịch

Trong một khoảng thời gian rất dài của lịch sử, đất nước Bangladesh ngày hôm nay đã từng là một phần của Ấn Độ và được biết đến như là Bengal. Cho nên lịch sử của đất nước Bangladesh hiện đại khá ngắn. Các biên giới của Bangladesh ngày nay được thành lập với sự phân vùng của Bengal và Ấn Độ vào năm 1947, khi khu vực này đã trở thành một phần của Đông Pakistan, một phần của quốc gia Pakistan mới được thành lập.

Sự khác biệt về chính trị và ngôn ngữ cùng với sự bỏ bê về kinh tế dẫn đến những phong trào chống lại miền Tây Pakistan diễn ra rộng rãi, dẫn đến cuộc chiến tranh giải phóng Bangladesh vào năm 1971 và thành lập nên quốc gia Bangladesh. Ngày nay, Bangladesh là một nước cộng hòa dân chủ vô thần.

Điều lạ lùng là, mặc dù Bangladesh là một đất nước có số lượng tín đồ Hồi giáo áp đảo, Phật giáo giữ một vai trò không nhỏ trong lịch sử và văn hóa của quốc gia. Xét trên toàn quốc, thì Phật giáo là tôn giáo lớn thứ ba, và ở một số vùng, chẳng hạn như ở Chittagong, Phật tử chiếm một con số khá ấn tượng, 12% dân số trong vùng.

Số lượng tín đồ Phật tử không phải là yếu tố khiến cho đạo Phật trở nên quan trọng ở Bangladesh, mà điều quan trọng chính là lịch sử của Phật giáo ở đấy. Khoảng cách từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Bengal không xa và khu vực này đóng một vai trò rất lớn trong sự phát triển của Phật giáo. Các học giả Phật giáo ở Bangladesh cho rằng, Đức Phật thuyết giảng tại Majjhimadesh của vương quốc Ấn Độ, một vùng đất mở rộng đến thị trấn Kajangal, đó là thành phố của Mahasal ở Bangladesh ngày nay. Họ tin rằng Đức Phật đã đến Kajangal và thuyết giảng hai bài pháp cho tín đồ ở đấy. Tuy nhiên, không có bất kỳ một cứ liệu lịch sử nào chứng minh rằng Đức Phật đã đến một vùng nào đó của Bangladesh để thuyết giảng trong cuộc đời của Ngài.

Các học giả nghiên cứu gần đây đã tìm thấy một trụ đá của vua A Dục tại Damrai, gần Dhaka, và họ đang cố gắng tìm hiểu xem Phật giáo đã đến Bangladesh như thế nào. Hiện có một vài khám phá khác, như là hai bản khắc chữ được tìm thấy ở Sanchi ghi lại những món quà của hai người dân của Purnavardhan, từ đó suy đoán là Phật giáo có mặt ở Bangladesh trước kỷ nguyên đầu của Tây lịch.

Dưới thời của Hoàng đế A Dục (304-232 TCN), Phật giáo được phát triển vững vàng như là tôn giáo số một tại Bengal, và Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển mạnh trong khu vực cho đến thế kỷ thứ XII. Bengal trở thành thành lũy cuối cùng của Phật giáo trong khi Ấn Độ giáo và Hồi giáo đang dần thống trị Tiểu lục địa.

Bangladesh là một phần không thể tách rời của Vanga hoặc Bengal cổ. Dựa trên hồ sơ bằng văn bản Pāli, ngài Vangisa, một trong những đệ tử lớn nhất của Đức Phật đã được ca ngợi từ một phần của Tiểu lục địa này. Những bản khắc về ngài Long Thọ có niên đại từ thế kỷ thứ III cho thấy rằng Phật giáo đã được người dân thực hành ở Bangladesh dưới dạng những quy tắc của vua A Dục. Cái tên Vanga đã được đề cập đến nơi những bản khắc trong một số trường hợp.

Vào thế kỷ thứ V, nhà chiêm bái người Trung Quốc, ngài Pháp Hiển, đã đến thăm Tamralipti (phía Tây Bengal, Ấn Độ) và đã thấy 24 tu viện Phật giáo. Đến thế kỷ thứ VII, ngài Huyền Trang đã đến thăm các vùng khác nhau của Bengal. Tại Samatata (huyện Noakhali của Bangladesh hiện nay), ngài đã thấy có 30 ngôi tự viện với hơn 2.000 Tăng sĩ, và ở Karnasuvarna (Bắc Bengal) thì có 10 tu viện với 2.000 Tăng sĩ. Ngoài ra, tại Tamralipti, ngài thấy có 10 tu viện với 1.000 Tăng sĩ. Tại Pundravardhana (Mahastan, huyện Bogra trong hiện tại), ngài thấy có 20 ngôi tự viện với 3.000 Tăng sĩ. Những khai quật khảo cổ tại Mainamati, huyện Comilla đã phát hiện thấy tu viện Salvana, nơi lưu lại những tàn tích của tu viện lịch sử Kanakastupa, nơi ngài Huyền Trang đã từng đến thăm.

Những sự thật này cũng được chứng thực bởi những lời ghi nhận khác nhau và được ghi lại bởi các nhà chiêm bái Trung Quốc khi đến thăm Bengal trong những năm sau này. Một số tu viện đã trở thành trường đại học nổi tiếng thế giới như Taxila, Udantapuri và Vickramasila.

Từ năm 750 đến năm 1150, Phật giáo phát triển đến đỉnh cao trong lịch sử của Bangladesh dưới sự bảo trợ của các vị vua thuộc triều đại Pala, như vua Gopala, Dharmapala và Devapala. Họ là những Phật tử thuần thành và dưới sự bảo trợ của họ, những tu viện nổi tiếng thế giới như ngôi đại tự Somapura, tu viện Shalban, đại tự Paharpur, đại tự Vickrampuri, tu viện Pandit đã được xây dựng tại Bangladesh.

Từ năm 1150 đến năm 1760, Phật giáo dần biến mất khỏi Bangladesh. Sau sự suy thoái của các vị vua thuộc triều đại Pala, đội quân Ấn giáo đã đến thống trị Bengal và đàn áp Phật giáo. Những người Phật tử còn sống sót đã rút về khu vực Chittagong. Trong chưa đầy một thế kỷ sau, các triều đại Sena đã bị tràn ngập bởi dòng thủy triều của Hồi giáo.

Với sự thành lập quyền lực ở Bengal, những người Hồi giáo đã phá hủy nhiều tu viện. Họ đã sát hại rất nhiều tu sĩ Phật giáo và thực hiện việc cải đạo có hiệu lực. Thậm chí ngày nay, một số phòng cầu nguyện Hồi giáo ở Chittagong vẫn được gọi là Buddher Mokkan (nghĩa là ngôi nhà hay đền thờ Phật giáo). Đây được coi là ngôi chùa Phật giáo được thành lập theo các quy tắc của các vị vua triều đại Pala. Ngày nay, Phật giáo có khoảng 1.000.000 tín đồ ở Bangladesh.

Vào tháng 9 năm 1760, Quân đội Đông Ấn Anh đã thiết lập quyền lực của họ ở Bangladesh. Chính sách tự do tôn giáo của người Anh cho phép các Phật tử, mặc dù số lượng giảm nhiều, tự chấn hưng Phật giáo ở Bangladesh trên một nền tảng vững chắc.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, kinh điển Phật giáo không có sẵn ở Bangladesh. Ngay cả tu sĩ Phật giáo và tu viện cũng có số lượng rất ít. Phật tử đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và thực hiện nhiều nghi thức, nghi lễ khác nhau của Ấn Độ giáo thay vì thực hiện theo nghi thức Phật giáo.

Trong khi đó, vương quốc Chakma là một nhà nước phong kiến ​​dưới sự thống trị của chính phủ Anh và người trị vì nó là Hoàng hậu Kalindi (1830 - 1873). Bà đã mời ngài Sangharaj Saramedha Mahasthavir từ Arakan, Miến Điện đến Bangladesh. Năm 1864 ngài Sangharaj Saramedha đến Chittagong và dẫn theo một phái đoàn Tăng sĩ được đào tạo đầy đủ để chuẩn bị cho việc truyền giới pháp Tỳ-kheo cho những ai đã sẵn sàng.

Sau đó ngài trú tại tu viện Pahartali Mahamuni ở Chittagong. Trong thời gian diễn ra lễ hội Mahamuni Fair hàng năm, nhiều Phật tử tụ hội về và trong dịp lành này, ngài đã truyền trao giới pháp Tỳ-kheo cho bảy vị tu sĩ ở Chittagong tại Udaka-Ukkhepa. (Hình dưới: Somapura Mahavihara, một đại cổ tự tại Paharpur, Naogaon, Bangladesh)

bangladesh-contentCũng trong thời gian này, Phật giáo Nguyên thủy đã được chính thức thành lập tại Bangladesh. Các vị vua cổ đại của Arakan đã tạo ra một tiền lệ là tôn vinh các vị Tăng nổi tiếng, những người đã phục vụ cho lợi ích của tôn giáo, với các tên gọi và danh hiệu thể hiện sự ưu việt của các vị ấy. Ngài Saramedha được chính phủ Anh vinh danh với một danh hiệu cao quý. Đây là lý do tại sao ngài đã được biết đến rộng rãi với danh xưng “Sangharaj” và những người cùng với ngài thành lập tổ chức Phật giáo Nguyên thủy được gọi là “Sangharaj Nikaya”.

Khi sự cai trị của thực dân Anh kết thúc vào năm 1947, Bangladesh đã được gọi là Đông Pakistan. Năm 1959, một hiệp hội Phật giáo có tên Parbatya Chattagram Bhikkhu Samiti (hay Chittagong Hill Tracts Bhikkhu Association) được thành lập dưới sự lãnh đạo của ngài Aggavansa Mahathero. Hiệp hội này đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo ở Chittagong. Nhờ có tổ chức này mà số lượng các tu sĩ và tu viện Phật giáo đã được tăng lên trong khu vực này. Hiện tại thì hiệp hội này vẫn còn phổ biến ở Chittagong và vẫn giữ vai trò tương tự. Sự hồi sinh của hình thức ẩn tu trong rừng cũng được diễn ra trong giai đoạn này.

Đến năm 1971, Đông Pakistan đã tách ra thành Bangladesh thông qua một cuộc chiến tranh đẫm máu. Năm 1972, một ngôi chùa Phật giáo có tên là Dharmarajik Bouddha Vihara đã được thành lập ở Dhaka, thủ đô của Bangladesh. Thêm vào đó, tu viện Shakyamuni Buddhist cũng được thành lập ở Dhaka. Hiện nay, có 4 ngôi chùa Phật giáo ở Dhaka.

Ngày nay, Bangladesh được thừa nhận là một quốc gia tôn trọng sự hài hòa giữa các tôn giáo, mặc dù một số vấn đề thỉnh thoảng được thêm vào lời xác nhận đó. Tuy nhiên, chính phủ cho rằng, Bangladesh có đủ lịch sử và truyền thống để làm cho nó thành một vùng đất của sự hài hòa và giao lưu văn hóa.

Ví dụ tốt nhất về sự hòa hợp tôn giáo và giao lưu văn hóa được tìm thấy nơi việc tổ chức lễ hội Pahela Baisakh (Ngày Năm mới Bangla). Đây là dịp thu hút mọi người từ tất cả các tầng lớp xã hội, và cũng là ngày mang màu sắc lễ hội nhiều hơn bất kỳ lễ hội tôn giáo của bất kỳ cộng đồng nào trên thế giới.

Lionel Wijesiri - Minh Phúdịch

(Nguyệt san Giác Ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2018(Xem: 6423)
Ý đồ của Hốt-tất-liệt, dựa trên Phật giáo Tây Tạng để thống trị Trung Quốc không chỉ bằng vũ lực mà còn cả về tư tưởng, tôn giáo, chính trị xã hội; nếu suy luận này của chúng ta không lạc hướng, thế thì lịch sử chứng tỏ ý đồ này đã thất bại. Ý nghĩa của sự thất bại này thuộc phạm vi nghiên cứu của các nhà văn hóa và sử học.
01/01/2018(Xem: 39836)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8000)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
26/10/2017(Xem: 8385)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
18/10/2017(Xem: 6476)
Lịch sử Phật Giáo qua tem bưu chính, Trần Thanh Lý biên soạn
06/06/2017(Xem: 8446)
Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh” đã mang lại cho người thời nay thật nhiều câu hỏi. Phong thủy có thật hay không? Định mệnh có thật hay không? Đức tin là thật hay là hư ảo? “Thiền uyển tập anh” hay “Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.
22/05/2017(Xem: 49542)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
18/04/2017(Xem: 9814)
Tập sách này gồm nhiều bản văn được chuyển dịch và trình bày kèm theo nguyên tác Anh ngữ, là các tài liệu trước đây vốn thuộc loại hồ sơ mật hoặc tối mật, nghĩa là chỉ dành riêng cho những người có trách nhiệm mà hoàn toàn không được phổ biến đến công chúng. Phần lớn các tài liệu đó là của chính phủ Mỹ, như các Công điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình... Tài liệu có nguồn từ Bộ Ngoại Giao Mỹ được lấy từ FRUS; ngoài ra còn có các tài liệu từ Tòa Bạch Ốc (Hội đồng An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental Operations).
09/11/2016(Xem: 8449)
Có khoảng 250 Đại Biểu chính thức của Hội Đồng Điều Hành Tăng Gìa Thế Giới gồm 36 Quốc Gia về Đài Bắc, Đài Loan tham dự Hội Nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 vừa qua. Hòa Thượng Thích Như Điển là thành viên của Ủy Ban Nghiên cứu và phát triển Phật Giáo trên thế giới cùng với đông đảo chư Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam cũng đã có mặt trong những ngày trọng đại nầy.
06/07/2016(Xem: 6614)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567