Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ sáu : Giải thích các điều nghi

02/05/201316:17(Xem: 22069)
Bài thứ sáu : Giải thích các điều nghi


Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Khóa Thứ IX

DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN

--- o0o ---

TẬP BA

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI

Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận 
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán 
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn 
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.

BÀI THỨ SÁU 

GIẢI THÍCH CÁC ĐIỀU NGHI 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì nội thức làm sao sanh ra các món phân biệt? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 

Do nhứt thế chủng thức 
Như thị như thị biến 
Dĩ triển chuyển lực cố 
Bỉ bỉ phân biệt sanh 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do các chủng tử trong Tạng thức, trùng trùng biến ra các pháp. Vì sức phát triển sanh khởi của các pháp, nên sanh ra các món phân biệt. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu không có ngoại cảnh làm duyên, chỉ có nội thức thì nội thức làm sao sanh ra các món phân biệt? 

Đáp:- Luận chủ trả lời: Do thức A lại da chứa đựng chủng tử của các pháp, các chủng tử ấy lại sanh ra các pháp hiện hành rồi mỗi pháp hiện hành lại sanh Kiến phần (năng phân biệt) và Tướng phần (bị phân biệt). 

Câu "Như thị như thị biến"; nghĩa là từ khi sanh cho đến khi chín, sự biến đổi phát triển rất nhiều. 

Câu "Dĩ triển chuyển lực cố"; nghĩa là tám thức hiện hành và các Tâm sở tương ưng, nào Tướng phần, nào Kiến phần v.v...đều có cái năng lực hổ trợ cho nhau, nên sanh ra các cảnh giới thế gian (bị phân biệt) và các món phân biệt (năng phân biệt). 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại sao lại có chúng hữu tình sanh tử tương tục? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 

Do chư nghiệp tập khí 
Nhị thủ tập khí câu 
Tiền Dị thục ký tận 
Phục sanh dư Dị thục 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do tập khí (chủng tử) của các nghiệp và tập khí (chủng tử) của hai thủ (năng thủ, sở thủ) chung nhau làm duyên nên thân Dị thục (báo thân) đời này vừa hết, thì lại tiếp tục sanh ra các thân dị thục đời sau và đời sau nữa. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì tại sao hiện nay thấy có các chúng hữu tình sanh tử tiếp nối luôn luôn? 

Đáp:- Do có các nghiệp làm duyên, nên chúng hữu tình sanh tử tương tục. 

Chữ "Chư nghiệp":Nghĩa là nghiệp lành, nghiệp dữ và nghiệp bất động (tu thiền định). 

Chữ "Nhị thủ":Kiến phần (năng thủ), Tướng phần (sở thủ) hoặc Danh (tâm) và Sắc (vật) hay Tâm vương và Tâm sở. 

Chữ "Tập khí": Tức là biệt danh của chủng tử. Như người viết chữ: khi chưa viết thì cái công năng tập quen (tập khí) đó, nó tiềm tàng núp ẩn trong tay, người không thấy được. Đến khi viết chữ, là do cái công năng tập luyện (khí phần) ngày trước đó, nên nay mới viết được. Bởi thế nên "chủng tử" (công năng tiềm tàng) cũng gọi là "tập khí". 

Báo thân của loài hữu tình, gọi là thân Dị thục. Khi thân Dị thục hiện tiền sắp diệt, thì chủng tử của các nghiệp làm sơ duyên và chủng tử của hai món thủ làm thân duyên, tương tục không dứt, nên làm cho sanh ra thân Dị thục đời sau. Bởi thế nên các chúng hữu tình, khi sắc thân này chết đi, thì lại sanh ra sắc thân khác. Do đó mà sanh tử nối luôn, không biết chừng nào cùng tận. 

25phpt09-3-6a

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu chỉ có thức mà thôi, tại sao rất nhiều chỗ trong kinh Phật nói có ba tánh? 

Đáp:- Phải biết ba tánh đó cũng chẳng ngoài thức. 

Hỏi:- Tại sao vậy ? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 

Do bỉ bỉ biến kế 
Biến kế chủng chủng vật 
Thử Biến kế sở chấp 
Tự tánh vô sở hữu 
Y tha khởi tự tánh 
Phân biệt duyên sở sanh 
Viên thành thật ư bỉ 
Thường viễn ly tiền tánh 
Cố thử dữ y tha 
Phi dị phi bất dị 
Như vô thường đẳng tánh 
Phi bất kiến thử bỉ 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói ba bài tụng để trả lời rằng: Do tánh Biến kế sở chấp, vọng chấp tất cả các vật. Tánh Biến kế sở chấp này, không thật có tự thể. Còn tánh Y tha khởi là do các duyên phân biệt mà sanh. Tánh Viên thành thật, là do trên tánh Y tha khởi xa lìa tánh Biến kế sở chấp mà hiện. 

Bởi thế nên tánh "Viên thành thật" đối với tánh "Y tha khởi" cũng khác mà cũng không khác, vì không thể tách riêng được. Bởi thế nên, nếu không thấy được tánh Viên thành thật, thì cũng không thể thấy được tánh Y tha khởi. Cũng như tánh vô thường v.v...đối với các pháp, cũng khác mà cũng không khác. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu chỉ có thức mà thôi, thì tại sao trong các kinh rất nhiều chỗ, đức Thế Tôn nói có ba món tự tánh: 1. Biến kế sở chấp tự tánh. 2. Y tha khởi tự tánh . 3. viên thành thật tự tánh ? 

Đáp:- Luận chủ trả lời rằng: "Ba món tự tánh Phật nói đó, cũng không rời thức". Song còn e người không tin, nên Luận chủ nói tiếp 3 bài tụng để giải thích nguyên do. 

Tánh Biến kế sở chấpnày là do chúng sanh vọng chấp ức đạc mà có. Như bên Âu châu có nhà học giả thấy bộ xương khỉ giống bộ xương người, nhơn đó họ nghi ngờ và ức đạc rằng: loài khỉ tiến hoá thành loài người; rồi đề xướng lên cái thuyết "Động vật tiến hóa" (Darwin). Từ đó về sau họ mới chủ trương rằng: "Tất cả vật trên thế gian, đều do tiến hoá thành". Bởi thế nên bài tụng nói:"Vọng chấp tất cả vật". 

Vì vọng tưởng ức đạc, chớ chẳng phải thật có, dụ như lông rùa sừng thỏ, nên bài tụng nói:"Tánh Biến kế Sở chấp không có thật thể" ( thử Biến kế sở chấp, tự tánh vô sở hữu). 

Còn tánh "Y tha khởi", là do phân biệt các duyên trong thế gian mà sanh. Thí như người nhặm con mắt, xem hư không thấy có các hoa đốm, rồi khởi vọng tưởng phân biệt: hoa này đỏ hay trắng, tốt hay xấu, giống thật hoa hay không v.v...Họ không biết rằng: Trong hư không chẳng có hoa, do nhặm mắt nên thấy có hoa (Y tha khởi). 

Trong tánh "Y tha khởi" có nhiễm và tịnh; nếu lìa được phần nhiễm ô tức là tánh Biến kế sở chấp, thì đặng phần thanh tịnh, gọi là tánh "Viên thành thật". Cũng như nước và sóng, nếu sóng xao động lặng, thì tánh nước yên tịnh hiện ra. 

Bởi thế nên "tánh Viên thành thật" với "tánh Y tha khởi", không thể nói khác hay không khác, cũng như nước với sóng không hai mà cũng không một. 

25phpt09-3-6b

Câu “Như vô thuờng đẳng tánh”; nghĩa là trong kinh nói: “Tất cả pháp vô thường, khổ và vô ngã v.v…’. – Vô thường, khổ và vô ngã là tánh chung của các pháp; còn các cảnh vật như núi sông cỏ cây v.v… là tướng riêng của các pháp. Vì tánh, tướng không rời nhau, nên vô thường, khổ, vô ngã đối với các pháp, chẳng phải khác và chẳng phải một.

Câu "Phi bất kiến thử bỉ "; nghĩa là nếu không thấy được tánh Viên thành thật đây, thì cũng không thấy được tánh Y tha khởi kia. 

Nghĩa này không những trong đạo Phật, ngay đến người thế tục, nếu không tu theo Phật pháp, để ngộ tánh Viên thành thật, thì cũng không thể thấy được các pháp Y tha khởi của thế gian. 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu đã có 3 tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh?” 

Đáp: - Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Tức y thử tam tánh 
Lập bỉ tam vô tánh 
Cố Phật mật ý thuyết 
Nhứt thế pháp vô tánh 
Sơ tức tướng vô tánh 
Thứ vô tự nhiên tánh 
Hậu do viễn ly tiền 
Sở chấp ngã, pháp tánh 
Thử chư pháp thắng nghĩa 
Diệt tức thị chơn như 
Thường như kỳ tánh cố 
Tức Duy thức thật tánh. 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói 3 bài tụng để trả lời rằng: Phật y cứ trên ba món tự tánh này, mà mật ý nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh". 

1. Biến kế sở chấp không tự tánh, vì tướng hy vọng vậy. 

2. Y tha khởi không có tự tánh, vì do các duyên phân biệt sanh, không phải tự nhiên có. 

3. Viên thành thật không có tự tánh, do xa lìa tánh Biến kế hư vọng chấp ngã chấp pháp mà hiện. 

Đây là nghĩa thù thắng của các pháp, cũng gọi là "chơn như", vì tánh nó "thường như" vậy; cũng tức "thật tánh" của Duy thức. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu có ba món tự tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh"? 

Đáp:- Luận chủ nói 3 bài tụng để giải thích: "Phật y cứ trên ba món tự tánh, rồi giả lập ba món vô tánh". - Đã nói "Phật giả lập ba món vô tánh" thì biết rằng chẳng phải thật vô. Sở dĩ Phật phương tiện mật ý nói như vậy, chẳng qua để đối trị cái chấp "ba tánh" mà thôi, chớ không phải thật ý. Cũng như dùng ba món thuốc để đối trị ba bịnh. 

Ba món vô tánh là: 1. Tướng vô tánh; nghĩa là tướng Biến kế sở chấp, hư vọng không thật có, 2. Tự nhiên vô tánh; nghĩa là do các duyên sanh, không phải tự nhiên có; nên cũng gọi là "sanh vô tánh", 3. Thắng nghĩa vô tánh; nghĩa là xa lìa cac vọng chấp ngã chấp pháp rồi, mới hiện ra tánh này; nên gọi là "Thắng nghĩa vô tánh". 

Thắng nghĩa vô tánh, cũng tức là chơn như, vì tánh nó chơn thật không vọng, thường như vậy; cũng gọi là "Thật tánh của Duy thức". 

25phpt09-3-6c

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2018(Xem: 6515)
Ý đồ của Hốt-tất-liệt, dựa trên Phật giáo Tây Tạng để thống trị Trung Quốc không chỉ bằng vũ lực mà còn cả về tư tưởng, tôn giáo, chính trị xã hội; nếu suy luận này của chúng ta không lạc hướng, thế thì lịch sử chứng tỏ ý đồ này đã thất bại. Ý nghĩa của sự thất bại này thuộc phạm vi nghiên cứu của các nhà văn hóa và sử học.
01/01/2018(Xem: 40232)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8195)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
26/10/2017(Xem: 8495)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
18/10/2017(Xem: 6620)
Lịch sử Phật Giáo qua tem bưu chính, Trần Thanh Lý biên soạn
06/06/2017(Xem: 8561)
Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh” đã mang lại cho người thời nay thật nhiều câu hỏi. Phong thủy có thật hay không? Định mệnh có thật hay không? Đức tin là thật hay là hư ảo? “Thiền uyển tập anh” hay “Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.
22/05/2017(Xem: 49942)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
18/04/2017(Xem: 9962)
Tập sách này gồm nhiều bản văn được chuyển dịch và trình bày kèm theo nguyên tác Anh ngữ, là các tài liệu trước đây vốn thuộc loại hồ sơ mật hoặc tối mật, nghĩa là chỉ dành riêng cho những người có trách nhiệm mà hoàn toàn không được phổ biến đến công chúng. Phần lớn các tài liệu đó là của chính phủ Mỹ, như các Công điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình... Tài liệu có nguồn từ Bộ Ngoại Giao Mỹ được lấy từ FRUS; ngoài ra còn có các tài liệu từ Tòa Bạch Ốc (Hội đồng An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental Operations).
09/11/2016(Xem: 8601)
Có khoảng 250 Đại Biểu chính thức của Hội Đồng Điều Hành Tăng Gìa Thế Giới gồm 36 Quốc Gia về Đài Bắc, Đài Loan tham dự Hội Nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 vừa qua. Hòa Thượng Thích Như Điển là thành viên của Ủy Ban Nghiên cứu và phát triển Phật Giáo trên thế giới cùng với đông đảo chư Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam cũng đã có mặt trong những ngày trọng đại nầy.
06/07/2016(Xem: 6848)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567