Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa Hoa Đình ở Côn Minh

10/04/201314:27(Xem: 4159)
Chùa Hoa Đình ở Côn Minh


Chùa Hoa Đình ở Côn Minh

NGUYỄN KHUÊ

---o0o---

Với một vị trí ở giữa cảnh quan núi non rất đẹp, kiến trúc qui mô tráng lệ và có nhiều cổ tích văn vật có giá trị văn hóa nghệ thuật, chùa Hoa Đình được xem là một danh lam cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Côn Minh. Chính vì thế, năm 1983, Quốc vụ viện công nhận chùa Hoa Đình là một tự viện trọng điểm của Phật giáo Trung Quốc

Chúng tôi đến viếng cảnh chùa Hoa Đình vào một buổi sáng đầu Thu năm nay. Sau mấy ngày mưa, trời rất đẹp.

Chùa Hoa Đình, người Trung Quốc gọi là Hoa Đình thiền tự hay Hoa Đình tự , tọa lạc trên ngọn núi Hoa Đình của Bích Kê Sơn thuộc Tây Sơn, bên bờ hồ Côn Minh tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Nền cũ của chùa này nguyên là biệt thự của Thiện Xiển hầu Cao Trí Khai thời kỳ nước Đại Lý đời Tống(1).

Năm Diên Hựu thứ 7 (1320 TL) đời Nguyên, ngài Huyền Phong (1266-1349), vị Pháp sư được tôn xưng là Vân Nam Thiền tôn đệ nhất Tổ , xây dựng chùa ở đây, lúc đầu đặt tên là chùa Đại Viên Giác. Pháp sư Huyền Phong là vị Tổ khai sơn của chùa này. Người sau nhân tên núi là Hoa Đình Phong, nên đổi tên chùa là Hoa Đình tự .

Năm Thiên Thuận thứ 6 (1462), vua Anh Tông nhà Minh ban cho tên chùa là Hoa Đình Sơn Đại Viên Giác tự .

Trải qua hai triều Minh và Thanh, chùa nhiều lần bị hư hoại vì binh lửa, rồi lại nhiều lần được trùng tu.

Năm 1922, Hòa thượng Hư Vân (1840-1959) nhân trùng tu chùa, đào được một tấm bia cổ, hàng chữ đầu có khắc tên chùa là Vân Thê, các hàng chữ khác bị mờ, không đọc được, nên không biết niên đại của tấm bia, mới đặt tên chùa là Tĩnh Quốc Vân Thê thiền tự .

Chùa Hoa Đình có qui mô rộng lớn, nguy nga tráng lệ. Cổng chùa có bậc cấp cao, tất cả các loại xe đều đậu ở bên ngoài, giữ cho chùa sự yên tĩnh tôn nghiêm của nơi thờ phượng.

Theo tục lệ đến chùa lễ bái của người Trung Quốc, khi bước vào cổng chùa hoặc điện thờ Phật, phải bước chân trái qua ngưỡng cửa trước, khi bước ra thì bước chân phải trước.

Trong khuôn viên chùa, và ngay cả trước cổng chùa, không có người ăn xin, cũng vắng bóng những kẻ bán hàng rong. Chúng tôi cũng không thấy bày bán chim phóng sinh. Đó đây có những gian hàng ngăn nắp, mỹ quan, hoặc bày bán thức ăn chay (mua đem về, chứ không ăn tại chỗ), nhang đèn, tràng hạt, những đồ vật lưu niệm, hoặc phát hành kinh sách cho khách thập phương đến tham quan, lễ bái.

Lễ Phật, người Trung Quốc dùng hai loại nhang có màu khác nhau: nhang màu đỏ để cầu xin được sống lâu và nhang màu vàng để cầu xin phát tài.

Trong sân chùa có nhiều cây cổ thụ, bạch mai, hai cây tử vi. Cây tử vi cao hơn 3m, vỏ cây trơn láng, hoa màu đỏ tím. Thơ văn Trung Quốc thường nói đến cây tử vi, nay lần đầu tôi được tận mắt nhìn thấy. Có một điều kỳ thú về cây tử vi là nếu ta vuốt thân cây thì sự xúc chạm truyền lên cành lá làm cho cành lá khẽ rung động. Tôi có mấy vần thơ vịnh cây tử vi ở chùa Hoa Đình như sau:

Tử vi cũng giống hữu tình(2)

Thân cây truyền xúc rung rinh lá cành

Kiếp xưa đã tạo nhân lành

Nên nay được đứng Hoa Đình nghe kinh

Linh Sơn qui hướng tinh thành (3)

Đủ duyên ắt sẽ hóa sinh có ngày.

Trong Thiên Vương điện, thờ tôn tượng của bốn vị Tứ Đại Thiên Vương, hai vị mặt trắng hiền từ, hai vị mặt đen hung dữ. Đó là bốn vị hộ trì Phật pháp, hộ trì bốn cõi thiên hạ, khiến các quỉ thần hung ác không thể xâm hại chúng sinh.

Bước vào Đại Hùng bảo điện, người ta chú ý ngay đến ba tượng Phật lớn và rất oai nghiêm, đó là kim thân của Phật Thích Ca Mâu Ni (ở giữa), Phật A Di Đà (bên phải) và Phật Dược Sư (bên trái). Trên vách hai bên và vách phía sau của bảo điện có đắp tượng 500 vị La hán, mỗi vị có một tư thế, cách phục sức và dáng vẻ riêng, cực kỳ sinh động, thật là một công trình nghệ thuật rất có giá trị. Chẳng hạn trong số 500 tượng La hán có đến 3 tượng (1 ở vách bên phải, 1 ở vách trái và 1 ở vách sau) đều có một cánh tay thật dài, dài gấp ba, bốn lần cánh tay kia, nhưng với ba thần thái biểu hiện ba ý nghĩa khác nhau: một vị vươn cánh tay dài này lên không trung như nắm bắt hư không, một vị khác giơ tay lên trời nắm lấy vầng trăng, còn vị thứ ba thì giơ tay bắt một con chim. Người Trung Quốc đến lễ bái ở đây thường đếm tượng La hán để bói thời vận tốt xấu. Người ta đếm tượng La hán, bắt đầu với bất kỳ tượng nào cũng được, đếm nhẩm 1, 2, 3... cho đến đúng số tuổi của mình thì thôi, và xem thần thái vui, buồn của vị La hán cuối cùng mà suy đoán thời vận của mình.

Đàng sau Đại Hùng bảo điện là Tàng kinh lâu hai tầng, kiến trúc rất đẹp.

Chùa Hoa Đình có hai tượng Phật bằng ngọc do Phật giáo Myanmar tặng, một tượng Phật mạ vàng do Phật giáo Thái Lan tặng. Trong phương trượng còn giữ được một tượng Chuẩn Đề Bồ tát bằng đồng có 3 mắt và 18 cánh tay. Ngoài ra, chùa có tháp xá lợi của Thiền sư Hư Vân, bia khắc thơ của Lâm Tắc Từ và của Quách Mạc Nhược.

Với một vị trí ở giữa cảnh quan núi non rất đẹp, kiến trúc qui mô tráng lệ và có nhiều cổ tích văn vật có giá trị văn hóa nghệ thuật, chùa Hoa Đình được xem là một danh lam cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Côn Minh. Chính vì thế, năm 1983, Quốc vụ viện công nhận chùa Hoa Đình là một tự viện trọng điểm của Phật giáo Trung Quốc i

1. Thiện Xiển tức Côn Minh ngày nay. Đại Lý là tên nước, ở địa phận tỉnh Vân Nam bây giờ, bị nhà Nguyên diệt.

2. Từ hữu tình ở đây dùng theo nghĩa nhà Phật, chỉ loài có tình thức và có sự sinh tồn.

3. Linh Sơn tức Linh Thứu Sơn, tên một ngọn núi ở Trung Ấn Độ, nơi Đức Như Lai thường trụ thuyết pháp.


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/06/2011(Xem: 3577)
Chùa Báo Thiên và tháp Đại Thắng Tư Thiên là do vua Lý Thánh Tông đứng ra chủ trì việc xây dựng. Nói cách khác là do nhà nước đứng ra làm “chủ đầu tư” theo cách nói hiện nay. Chùa và tháp là hai biểu tượng của Phật giáo, nhưng do là một người theo Phật, vua đã cho xây chùa năm 1056 và dựng tháp năm 1057.
13/06/2011(Xem: 13002)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
10/06/2011(Xem: 5177)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
31/05/2011(Xem: 21849)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
26/05/2011(Xem: 2574)
Lý Thần Tông kiếp trước là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, con của Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông), được Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi truyền ngôi cho năm Đinh Mùi (1127). Sách Đại Việt sử lược cho biết vua Lý Thần Tông chính là hiện thân kiếp sau của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ, ông bị Lý Nhân Tông bắt tội khi yểm bùa trong lễ cầu thác sinh có con của vua. Lúc đó Sùng Hiền Hầu đi qua, Từ Lộ đề nghị cứu giúp, “ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”.
25/05/2011(Xem: 5387)
“Uống nước nhớ nguồn”, đó là lẽ thường tình của con người, huống hồ là Phật tử. Hôm nay hàng Phật-tử chúng ta đang sống trong hào quang tươi sáng của Phật, trong một tổ chức có quy-mô, trong một đường lối giáo dục có phương pháp và trong một tinh-thần thống nhất ý chí-hành động. Đó là nhờ sự gắng công thường xuyên, ý chí bất khuất của các bậc Tiền-Bối trong Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam, 50 năm về trước, của 3 miền Nam, Trung, Bắc.
09/05/2011(Xem: 5815)
Gan lam Truong Sa - Minh Hue. Gần lắm Trường Sa - Minh Huệ. Trích: Xuân Trường Sa 2014. VTV1 ngày 08-03-2014. GẦN LẮM TRƯỜNG SA Mỗi cánh thư về từ đảo xa, Anh thường nói rằng Trường Sa lắm xa xôi. Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội yêu thương. Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng quanh ghềnh trúc san hô. Trường Sa ơi, biên đảo quê hương, đôi mắt biên cương, vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão dập, đảo quê hương. Anh vẫn đêm ngày giữa biển khơi, thương nhớ sao nguôi ngươi chiến sĩ Trường Sa ơi. Không xa đâu Trường Sa ơi, không xa đâu Trường Sa ơi. Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em. Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh. Mong cánh thư về từ đảo xa, Nơi thành phố này, Trường Sa mãi bên em. Anh ơi có nghe lời người từ phố biển, khi ngọn triều dâng cao. Khi cánh Hải âu về, khi nắng sang mùa, nơi đảo trúc san hô. Chiều Nha Trang, sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang, sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo. Trường Sa ơi. Trông
27/04/2011(Xem: 4183)
Tôi treo cờ Phật giáo vì mục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
23/03/2011(Xem: 4369)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
22/03/2011(Xem: 4972)
Cuối 1973, tuy xuất gia đã 10 năm, tương chao đã thấm tận vào máu tủy, lại chuẩn bị làm sinh viên Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, chúng tôi đúng tuổi phải bị VNCH gọi động viên phải đi lính [ai xúi Thiệu ra lệnh TT Đạm hăm ngưng cấp hoãn dịch tu sỹ?] Chính thời điểm 1973-4 lúc ĐĐ Liễu Minh nói bài nầy, ngài 40 tuổi, trong tinh thần lên án chống lại chế độ VNCH khi họ rục rịch ban hành Luật Tổng Động Viên, không cho ai được hoãn dịch kể cả Tu sỹ PG.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567