Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo Tây Phương.

01/04/201318:18(Xem: 4856)
Phật giáo Tây Phương.

PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG

Nguyên tác:Đại Đức Nyanasatta
Chuyển ngữ:
H.T. Thích Trí Chơn

Phật giáo du nhập các nước Tây Phương bằng cách nào? Trong thời gian Phật còn tại thế, Phật Giáo mới chỉ phát triển đến miền Tây Bắc Ấn Ðộ. Hai thế kỷ sau, đạo Phật lan rộng đến những vùng phía bắc sông Indus ở Punjab và xứ Afghanistan (A Phú Hản). Chẳng bao lâu, Phật Giáo du nhập các nuớc Ba Tư (Persia), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkestan) và miền bắc xứ Aryan thuộc Trung Á. Ðến thời vua A Dục, Phật Giáo đã được phát triển xa rộng, bằng chứng là trên những trụ đá của Ngài dựng nên thời đó có ghi chép về việc nhà vua đã từng phái nhiều đoàn truyền giáo đến thuyết pháp ở các miền xa như Ba Tư, Syria, Ai Cập, Hy Lạp.

Thú thật rằng tôi chưa hề được đọc tài liệu xác đáng nào nói về kết quả của đoàn truyền giáo trên tại Hy Lạp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Nhưng vài tháng trước đây, nhân dịp trên đường về sau chuyến hành hương thăm Nepal và Bắc Ấn Ðộ, tôi đem vấn đề trên thảo luận với một học giả ở Madras thì giáo sư này quyết chắc với tôi trong một cuốn sách viết bằng Anh ngữ vừa mới xuất bản nhan đề “Khảo Cổ Về Các Tôn Giáo” (The Archaeology of Religions) ông đã được thấy có nhiều hình ảnh trình bày về nền văn minh và văn hóa cổ của Phật Giáo ở Macedonia (Hy Lạp) và Thracia. Có thể rằng một ngày gần đây, người ta sẽ tìm ra được nhiều bằng chứng hơn để làm sáng tỏ vấn đề đó.

Trong địa hạt thương mại, xưa kia đã có nhiều đường bộ từ Ấn Ðộ qua Ba Tư, Caucasia đến Armenia cùng những xứ gần Hắc Hải (Black Sea) và Ðịa Trung Hải cũng như các đường thủy từ Ấn Ðộ qua Ai Cập và La Mã. Như vậy, trước niên kỷ Thiên Chúa, Phật Giáo có thể đã được truyền vào Âu Châu do những đoàn người đi buôn qua lại giữa Ấn Ðộ với Hy Lạp và Ý Ðại Lợi. Vào khoảng tám thế kỷ đầu Phật lịch, các thương gia Ả Rập sau khi đến các xứ Phật Giáo Á Châu về, có thể họ đem những câu chuyện đời sống đức Phật và giáo lý của Ngài mà họ đã được nghe những Phật tử miền Trung Á (Central Asia) tường thuật để kể lại với dân chúng bấy giờ. Nhiều bài thơ ngụ ngôn do Aesop, thi gia Hy Lạp hoặc La Fontaine (Pháp) sáng tác đều bắt nguồn ở bộ truyện tiền thân đức Phật (Jatakas).

Nhiều nhà hàng hải như Marco Polo và các vị truyền giáo Cơ đốc đầu tiên đến vùng Viễn đông trở về, họ cũng mang theo nhiều tài liệu, tin tức của những vùng theo Phật Giáo. Về sau, có một vài nhà truyền giáo đã học tiếng Phạn (Sanskrit) để mong dễ thành tựu trong việc phát triển đạo của họ. Những cuốn văn phạm và các bản dịch Phạn ngữ đầu tiên đều do mấy nhà truyền giáo này biên soạn. Khoảng đầu thế kỷ thứ 17, phạm vi kiến thức của những học giả Tây Phương đã bắt đầu mở rộng: Sau khi đồng hóa với nền văn chương, nghệ thuật và triết học mới tìm gặp ở Hy Lạp, họ liền nghĩ đến những vùng đất xa hơn, đó là xứ Ba Tư nằm trên đường đi Ấn Độ. Năm 1610, người ta dịch truyện Gulistan của Ba Tư.

Năm 1800, Anquetil du Perron ấn hành cuốn thánh truyện Avesta cũng của dân tộc Ba Tư. Năm 1802-1803, Anquetil du Perron dịch bộ triết học Áo Nghĩa Thư (Upanishads) viết bằng Phạn ngữ ra tiếng Ba Tư với nhan đề là Onpnek’hat. Sau này bộ Onpnek’hat được dịch ra tiếng Latin mới thật công phu và hữu ích, bởi nó đã giúp cho nhiều triết gia Ðức, nhất là Schelling và Schopenhauer hiểu rõ được nguồn gốc khởi thủy của triết học Ấn Ðộ.

Tuy nhiên sự chú trọng nghiên cứu Phạn ngữ- chính trong lúc học hỏi văn chương và tiếng Phạn, Tây Phương đã biết Phật Giáo- bắt đầu do những học giả Anh quốc. Ông Warren Hastings (1732-1818), vị toàn quyền đầu tiên của Ấn Ðộ đã ủy thác cho 11 vị học giả theo đạo Bà La Môn dịch ra tiếng Anh bộ luật Ấn Ðộ (A Code of Gentoo Laws) và năm 1775, bản dịch đó đã được gởi qua Luân Ðôn. Nhờ sự khích lệ của Warren Hastings, một học giả khác, ông Charles Wilkins đã dịch bộ Bhagavadgita năm 1785 và bộ Hitopadesa năm 1787. Và cuốn văn phạm Phạn văn đầu tiên cũng do ông này soạn. Vào năm 1786 có một học giả người Hy Lạp ông Dimitrios Galanos (1760-1833 ) đến Ấn Ðộ tu khổ hạnh 40 năm với những người theo Bà La Môn giáo ở Ba La Nại ( Benares ) và sau mất tại đó. Ông đã dịch Phạn văn ra tiếng Hy Lạp và soạn cuốn từ điển tiếng Phạn cho những người Hy Lạp dùng. Hiện tác phẩm viết bằng tay này đang còn giữ ở thư viện quốc gia Hy Lạp tại Athens.

Alexander Csoma de Korosi (1774-1842) người Hung Gia Lợi cũng đã sống nhiều năm ở Ấn Ðộ và Tây Tạng. Ông đã ấn hành đầu tiên cuốn văn phạm và từ điển Tây Tạng bằng Anh văn cũng như đã cho đăng tãi vào năm 1836 ở tờ Á Châu tạp chí (Asiatic Review) tài liệu bình giải về bộ Thánh kinh Anjur của Tây Tạng. Sau khi những học giả người Anh dịch xong ra Anh văn bộ luật Manu- bộ luật cần thiết cho chính quyền Anh ở Ấn Ðộ- họ lại dịch bộ Mahabharata và The Hyms of The Rigveda. Không bao lâu nối tiếp những người Anh, có nhiều học giả Pháp và Ðức cũng thông bác tiếng Phạn và họ có thể dịch trực tiếp được nhiều bản Phạn văn. Bởi vậy những học giả, thi gia đầu tiên của hai nước này đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn chương Ấn Ðộ.

Trong lúc sự nghiên cứu Phạn văn ngày càng phát triển mạnh ở Tây Phương thì sự tham học tiếng Bali (Pa- Lị) và những kinh điển Phật Giáo bằng Pali cũng được nhiều học giả chú ý. Năm 1826, Eugen Burnouf và Christian- Lessen cho phát hành đầu tiên tập “Tiểu Luận Về Tiếng Pali” (Essai sur le Pali). Năm 1840 học giả Pháp Eugen Burnouf diễn thuyết về Phật Giáo tại đại học đường College de France và ông đã chinh phục được nhiều sinh viên Phật tử. Từ đó, trường này trở thành nơi nghiên cứu Phật Giáo của nhiều vị học giả khác như R.Roth và Max Muller. Năm 1834-1835, James Prinsep, tòng sự tại sở đúc tiền ở Calcutta là người đầu tiên đọc hiểu được những bia ký của vua A Dục và những bài kệ của các vị sơ tổ Phật Giáo Ấn Ðộ.

Năm 1836, George Turnour cho ấn hành bản dịch ra Anh văn tập Ðại Sử Tích Lan (Mahavamsa) và có in phụ một phần kinh Pali. Năm 1844 Eugen Burnouf cho xuất bản cuốn sách “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” (Introduction à L’histoire du Bouddhisme Indienne). Trong lời nói đầu của tác phẩm này, tác giả có nhắc đến ông B.H Hodgson, nguyên người Anh giữ chức tổng trú sứ ở Nepal. Ông đã khá thông hiểu Phật Giáo và đã cho ấn hành nhiều kinh sách Phật bằng Phạn văn mà lúc bấy giờ đa số người Tây Phương không biết đến.

Ngoài ra, ông còn viết nhiều sách Phật bằng Anh ngữ để gởi sang Anh và Pháp. Chính nhờ những tài liệu này đã giúp cho học giả Pháp Eugen Burnouf soạn tác phẩm “Lịch Sử Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” nói trên. Năm 1825, tờ Á Ðông tạp chí (Journal Asiatic) phát hành tại St. Petersburg (Nga Xô) cũng có đăng một bài viết về “Lich Sử Ðức Phật” của ông J.J. Schmidt. Ngoài ra khoảng đầu bán thế kỷ 19, có nhiều tài liệu Phật Giáo khác phát hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản và những sách báo Phật Giáo này cũng đã gây được nhiều ảnh hưởng cho đa số học giả khác ở Tây Phương.

Arthur Schopenhauer (1788-1860) là một triết gia Ðức rất sùng bái và ham chuộng Phật Giáo, nhưng có điều không may cho nền Phật Giáo Tây Phương là lúc bấy giờ, về những giáo lý căn bản của đức Phật ông hiểu rất ít. Ông chỉ biết qua những hình thức Phật Giáo đương thời ở vài nước như Tây Tạng, Nepal, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản, chứ ông không phân biệt được sự sai khác giữa Phật Giáo và Ấn Ðộ giáo. Ðây là điều sai lầm chung của phần đông các học giả thời đó. Ðến hiện nay, vẫn còn nhiều người Tây Phương nhầm lẫn Phật Giáo với Ấn Ðộ giáo. Schopenhauer cho rằng triết thuyết của ông giống Phật Giáo; thật ra nó lại gần với Bà La Môn giáo hơn, một đạo giáo mà ông đã chịu ảnh hưởng qua cuốn Oupnek’hat dịch từ bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishads) ra tiếng Ba Tư bởi một tín đồ Hồi Giáo là hoàng thân Dara Sahkoh, anh em với vua Mông Cổ Aurengzed.

Theo bản dịch của Anquetil du Perron, Oupnek’hat nghĩa là Upanishads. Ngay nhan đề cuốn sách ông ta dịch đã sai thì nội dung cuốn đó chắc gì tác giả đã dịch hoàn toàn đúng. Còn nghiên cứu bộ Upanishads qua bản Latin dịch ở bản tiếng Ba Tư của hoàng tử Dara Sahkoh dịch từ nguyên văn Phạn ngữ ra thì đâu phải là công việc dễ. Do đó Arthur Schopenhauer, một triết gia Ðức danh tiếng, triết gia của những tâm hồn bi quan đã khiến Phật Giáo lắm khi bị mang tiếng xấu tiêu cực bởi chính cái triết thuyết của ông, triết thuyết mà Schopenhauer lạm nhận cho nó là giống với Phật Giáo như trong Bách Khoa Tự Điển đã giải thích sai lầm rằng “Thuyết thần bí (Mysticism) của ông Schopenhauer có vài điểm tương đồng với đại thừa Phật Giáo”. Thật ra Schopenhauer ít am tường về Phật Giáo Nguyên Thỉ (tiểu thừa) và lại càng mù tịt hơn về Phật Giáo đại thừa, vì nguồn gốc của giáo lý này đều nằm ở những tạng kinh Tây Tạng, Mông Cổ hoặc Trung Hoa chứ không phải ở bộ Oupnek’hat.

Tuy vậy, năm 1856 người ta thấy trên bàn trong phòng Schopenhauer có đặt một bức tượng Phật Tây Tạng, trong lúc ấy ông cũng đặt cho con chó trắng thân yêu của ông cái tên Atman để chứng tỏ “sự bình đẳng giữa người và thú vật hoặc giữa thú vật và người”. Riêng ý niệm này của Schopenhauer đủ cho ta thấy có sự hòa hợp giữa triết thuyết của ông với Ấn Ðộ giáo và các nhà nghiên cứu Phật Giáo cũng không e ngại bảo rằng thật là một sai lầm lớn nếu có ai cho triết lý bi quan của Schopenhauer là đại thừa Phật Giáo. Vì Phật Giáo không dạy một cách máy móc rằng con vật bình đẳng với con người, bởi lẻ loài vật thuộc khổ cảnh còn con người lại thuộc lạc cảnh. Như vậy rõ thật Schopenhauer là một con người có tâm trạng yếm thế đúng với danh từ “kẻ chán đời” mà Bách Khoa Tự Ðiển đã gán cho ông.

Bộ kinh Pali đầu tiên phát hành ở Tây phương tại Leipzig (Đức Quốc). Năm 1848 là bộ Anechota Palica của ông Friedrerich Spiegel. Trong cuốn này, ngoài kinh Pali có thêm phần dịch và chú thích bằng Ðức ngữ. Năm 1855, cuốn kinh Pháp Cú toàn tiếng Pali với bản dịch Latin của ông Fausboll đầu tiên được ấn hành tại Tây Phương ở Kopenhagen (Ðan Mạch). Năm 1862, cuốn kinh này cũng được ông Albrecht Weber dịch ra tiếng Ðức. Và giữa lúc các nhà nghiên cứu Ấn Ðộ ngữ dịch thêm nhiều bộ kinh Pali, những học giả Phật tử khác cũng đã cố gắng tìm cách phổ biến sâu rộng Phật Giáo vào quần chúng. Hiện nay, phần lớn những bộ kinh Pali, đã được hội “Pali Text Society” dịch ra Anh ngữ hoặc Ðức văn. Nhiều bộ kinh Phật giá trị khác cũng đã được dịch sang tiếng Ý.

Vào khoảng những năm đầu của chính thể Cộng Sản Xô Viết cũng có nhiều sách Phật, nhất là đại thừa ấn hành ở Leningrad (Nga) và các nơi khác. Tại Hung Gia Lợi và những quốc gia gần bể Baltic (thuộc Ðại Tây Dương) đều có nhiều kinh sách Phật Giáo in bằng ngôn ngữ của nước họ. Nhiều kinh sách và từ điển Pali cũng được ấn hành tại Danes (Ðan Mạch) và Dutch (Ðức). Hiện giờ ở Yugoslavia (Nam Tư) cũng có nhiều học giả Phật tử bắt đầu dịch kinh Pali và gần đây ở Lỗ Mã Ni (Rumania), ông viện trưởng đại học quốc gia Bucharest có nhờ tôi gởi đến vị chủ bút ban biên tập bộ Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism) 100 cuốn sách Phật tìm thấy ở thư viện của những đại học và các phân khoa khoa học tại Lỗ Mã Ni. Và khoảng vài ba năm trước đây, sau khi giáo sư Thomas Garigue Masaryk người Tiệp Khắc (Czechoslovakia) qua đời, người ta cũng đã tìm thấy tại thư viện gia đình của ông 27 cuốn sách Phật, đặc biệt nhất là bộ A Tỳ Ðạt Ma (Abhidhamma).

Mấy năm gần đây, ngày lễ Phật Đản cũng đã được trường đại học khoa học tổ chức trọng thể tại Prague (Tiệp Khắc) và ở Ba Lan (Poland) một pháp hữu của tôi đã giảng về Phật Giáo theo những đề tài do trường đại học nêu ra và lần thuyết pháp đầu tiên đó đã được đài phát thanh Ba Lan truyền đi dưới sự bảo trợ của đại học đường khoa học Ba Lan. Những Phật tử ở Ba Lan và Tiệp Khắc đã từng yêu cầu các đạo hữu ở Tích Lan cũng như các nước Phật Giáo Ðông Phương giúp đỡ những Phật sự bằng cách yêu cầu các chính phủ Cộng Sản tại đó cho phép họ được tự do phát triển Phật Giáo dễ dàng theo ý muốn của họ. Ngoài ra, còn nhiều tổ chức Phật Giáo ở Anh, Mỹ, Pháp và Ðức mà tất cả ai cũng đều biết.

Năm 1903, bác sĩ Kart Seidenstuecker thành lập hội Phật Giáo Ðức và ấn hành tạp sang “Phật Học” (Buddhist Review). Năm 1907, hội Phật giáo Anh ra đời và những tạp chí Phật Giáo Anh ngữ đầu tiên gởi sang Anh quốc đều ấn hành tại Miến Ðiện. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện tại Miến Điện nhiều vị Tỳ Kheo Tây Phương. Khoảng vào năm 1907 và 1908, một phái đoàn truyền giáo Miến Điện được gởi sang Anh quốc và sau này cũng có nhiều đoàn truyền giáo Miến Điện tiếp tục sang thuyết pháp tại Anh, Ðức, Mỹ, Pháp cùng nhiều quốc gia khác và họ đã tận lực phổ biến Phật Giáo tại các nước Âu Châu. Hơn nữa, những đại hội Phật Giáo thế giới, các cuộc lễ kỷ niệm Đức Phật nhập Niết Bàn tổ chức tại nhiều nước Phật Giáo Á Châu mấy năm vừa qua với những buổi phát thanh, chiếu phim và ấn hành những sách báo, tạp chí nói về Phật Giáo Á Châu cũng đã giúp ích nhiều cho sự bành trướng Phật Giáo tại các quốc gia Tây Phương.

(Trích tập chíThe International Buddhist News Forumsố tháng 11 năm 1961).

---o0o---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2021(Xem: 3097)
Tại Kampong Cham, cách sông Mekong không xa, một tỉnh phía đông của Campuchia, ngôi già lam cổ tự Phum Thmei Serey Mongkol, nơi trưu trữ hầu như đầy đủ nhất trong cả Vương quốc Phật giáo này bởi các văn bản Thánh điển Phật giáo được viết trên lá bối.
28/12/2021(Xem: 3545)
Kể từ khi nhập học trường mầm non mẫu giáo Phật Quang Sơn Tuệ Từ vào ngày 4 tháng 11 vừa qua, vườn rau công nghệ khoa học Thái Viên do Tổng hội Hoa kiều Quốc tế Phật Quang sơn cung cấp, đây là tạo ra một thử thách bởi cơn sóng gió nhỏ trong cuộc đời những đứa trẻ, các nhi đồng hồn nhiên vui tươi và cẩn thận khi gieo những hạt mầm non, hãy mong cho những hạt mầm non chóng lớn và liên tục quan sát chúng từng ngày, cho đến ngày 7 tháng 12, kết quả được chia sẻ, để việc học của các nhi đồng thêm những yếu tố và sức sống mới trong học tập.
26/12/2021(Xem: 2281)
Liên hợp Quốc tế Phật Quang Sơn Đài Loan-Malaysia chính thức thành lập vào ngày 19 tháng 12 vừa qua, đoàn đội lãnh đạo đã được bầu chọn cho nhiệm kỳ từ năm 2022-2024. Còn một chặng đường dài để lãnh đạo Liên hợp Quốc tế Phật Quang Sơn Đài Loan-Malaysia và tiến về phía trước cùng đồng nhịp phát triển với Hiệp hội Phật Quang Sơn Malaysia.
22/12/2021(Xem: 3397)
Giáo sư Tiến sĩ Mark Allo, giảng viên chính kiêm Trưởng khoa Phật học tại Đại học Sydney đã bị người tuyển dụng nhắc nhở bởi đã mang những cuộn sách Phật giáo cổ đại mỏng manh vào Úc, với xuất xứ không rõ ràng và tài liệu lưu trữ không hợp pháp. Trong một tuyên bố của Đại học Sydney nói rằng Giáo sư Tiến sĩ Mark Allo đã phạm phải sai lầm trong nhận định khi đưa hai bản thảo được viết trong vỏ cây vào Úc, lại sử dụng nền tảng huy động vốn cộng đồng của trường Đại học để gây quỹ tài trợ cho nghiên cứu bảo thảo Phật giáo cổ đại này.
22/12/2021(Xem: 3859)
Hindustan Times khẳng định, Đoàn nhà khảo cổ học người Ý và các nhà khai quật Pakistan đã khai quật ngôi già lam cổ tự 2.300 tuổi tọa lạc tại Quận Swat, Thung lũng Swat, vùng địa lý tự nhiên bao quanh sông Swat. Thung lũng là trung tâm chính của Ấn Độ giáo và Phật giáo thời kỳ đầu dưới vương quốc Phật giáo Gandhāra cổ đại, vùng miền Tây bắc Ấn Độ, ngày nay thuộc về Afghanistan và một phần của Pakistan và là trung tâm chính của Phật giáo Gandhāra, với các quần thể Phật giáo tồn tại trong thung lũng cho đến thế kỷ thứ 10, sau đó khu vực này phần lớn trở thành người Hồi giáo.
22/12/2021(Xem: 2324)
Trãi qua sáu năm liên tiếp, Đại học Phật giáo Nam Hoa (NHU) vẫn trong top 100 trường Đại học "Xanh" nhất thế giới! Đêm 14 tháng 12 vừa qua, Tổ chức xếp hạng Đại học phát triển bền vững thế giới (UI Greenmetric World University Ranking‎) đại diện hơn 20 quốc gia thế giới có Văn phòng đặt tại Indonesia đã công bố Bảng xếp hạng Đại học Thế giới GreenMetric năm 2021 (GreenMetric World University Ranking), Đại học Phật giáo Nam Hoa đứng vị trí 64 toàn cầu và đứng hàng thứ 6 toàn quốc, theo bảng xếp hạng toàn cầu có cải thiện 32 bậc so với năm ngoái.
22/12/2021(Xem: 2935)
Vào tháng tới, Bảo tàng Brooklyn đã lên kế hoạch cho ra mắt một bộ sưu tập mới, dành cho Nghệ thuật Phật giáo với nhiều đồ vật chưa từng thấy. Bảo tàng Brooklyn là một bảo tàng nghệ thuật nằm tại thành phố New York, quận Brooklyn, Hoa Kỳ. Với chủ đề "Nghệ thuật Phật giáo", sắp tới phòng trưng bày là một phần của Bảo tàng trụ sở tại New York, Hoa Kỳ, mối quan tâm mới đối với nghệ thuật từ các nền văn hóa phương Đông và Hồi giáo. Phòng trưng bày mới sẽ mở cửa đón khách tham quan vào ngày 21 tháng 1 năm 2022. Nơi trưng bày có 70 đồ vật từ 14 quốc gia, bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản và Thái Lan. Một số đồ vật có tuổi đời từ thế kỷ thứ 2 sau kỷ nguyên Tây lịch, trong khi những đồ vật khác hầu như không có tuổi đời hai thập kỷ.
19/12/2021(Xem: 1966)
Vào ngày 14 tháng 12 vừa qua, Lớp học trực tuyến của Học viện Đông Thiền Phật Quang sơn, Phật giáo Indonesia, 100 sinh viên đã tốt nghiệp 10 khóa học sau ba năm học Phật pháp. Chư vị khách mời tham dự lễ Bế giảng Tốt nghiệp có sự hiện diện của Pháp sư Giác Thành, trụ trì tổng Giáo khu Phật Quang sơn Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia, Pháp sư Tuệ Chiêu Viện trưởng Tùng lâm Học viện Phật Quang sơn, Pháp sư Học Hóa, Cố vấn ban ngôn ngữ Phật giáo hệ Indonesia, Pháp sư Như Âm, Vụ trưởng Khoa nam Tùng lâm Học viện Phật Quang sơn, Pháp sư Diệu Mục, Trụ trì Phật Quang sơn Singapore; và gần 50 người khác đã tham gia buổi lễ trực tuyến.
19/12/2021(Xem: 3765)
"84000: Diễn dịch kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật", một sáng kiến phi lợi nhuận toàn cầu và chia sẻ Tam tạng Thánh điển Phật giáo Tây Tạng do Ngài Lạt Ma, tác giả và nhà làm phim nổi tiếng, vị cao tăng thạc đức Phật giáo Bhutan sáng lập, Tôn giả Dzongsar Jamyang Khyentse đã công bố danh mục hoàn chỉnh đầu tiên trên thế giới bản dịch sang Anh ngữ "Đại tạng Tengyur" (tức danh mục các tác phẩm Phật giáo được lưu truyền từ truyền thống Phật giáo Nalanda Ấn-độ hay một số khác có nguồn gốc từ Phật giáo Tây Tạng); Các bản dịch Luận bằng tiếng Tây Tạng được sưu tầm bởi các bậc Đạo sư Phật giáo vĩ đại của Ấn Độ, giải thích và biên tập kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật qua nhiều thể loại văn học nghệ thuật khác nhau.
19/12/2021(Xem: 2177)
Nhị vị tịnh đức giáo phẩm Tăng già Phật giáo Campuchia và Cư sĩ Chhit Sokhon, Bộ trưởng Bộ Lễ nghi và Tôn giáo Vương quốc Campuchia Him Chhem - Ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân Campuchia, đã ra văn bản chỉ thị cho Thượng tọa Poeuy Mette, người có liên quan đến việc tranh chấp với tài phiệt trùm đại phú thương Seang Chanheng về một ngôi chùa Phật giáo Khmer tại Nhật Bản, giao quyền quản lý cho giáo phái Mohanikaya.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567