Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vận dụng Kinh tế học Phật giáo trong Phát triển Vương quốc Nepal

16/03/202221:34(Xem: 2633)
Vận dụng Kinh tế học Phật giáo trong Phát triển Vương quốc Nepal

nepal

Vận dụng Kinh tế học Phật giáo
trong Phát triển Vương quốc Nepal


 

Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng, Right livelihood, 正命), một trong chi phần của Bát Chánh đạo (Eight Noble Paths, 八正道), là những con đường chuyển hóa, con đường đưa đến giải thoát và an lạc mà Đức Phật đã dạy. Nhưng điều này rất có ý nghĩa với nhân dân Vương quốc Nepal và làm thế nào để chúng ta có thể phát triển Nghề nghiệp chân chính?

 

Những biến đổi đang diễn ra bên trong và xung quanh chúng ta, những nỗ lực của chúng ta để soạn thảo một Hiến pháp mới và tác động lực của các quốc gia láng giềng trong việc hướng đến những cải cách kinh tế lớn hơn có thể làm cải thiện xã hội Nepal theo những cách thức chưa từng có và xác định lại Nghề nghiệp chân chính trong công chúng như thế nào.

 

Sinh viên và người lao động nhập cư là những người đã áp dụng với những ý tưởng mới khi họ ở ngoại quốc và tìm cách áp dụng những ý tưởng này tại quê hương đất nước mình khi hồi hương tổ ấm. Tương tự như thế, sự tiếp cận với những ảnh hưởng quốc tế và mạng lưới Internet cho phép chúng ta góp nhặt những tinh hoa từ khắp đó đây. Nhưng ngay cả khi chúng ta có thể chọn những gì mình thích từ bên ngoài để thúc đẩy chuyển hóa xung quanh chúng ta để tạo dựng Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng), chúng ta vẫn phải quán chiếu nội tại của chính mình.

 

Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng) là cốt tủy của Kinh tế học Phật giáo (Buddhist economics, 佛教經濟學). Bằng cách áp dụng những kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật, Kinh tế học Phật giáo, lần đầu tiên được giới thiệu về tư tưởng của kinh tế gia E F Schumacher, người Anh gốc Đức, như đã được trình bày qua tác phẩm thời danh “Nhỏ là Đẹp” (Small is Beautiful, 小即是美) xuất bản lần đầu tiên tại London năm 1973, sau đó đã được liên tiếp tái bản tại nhiều nơi, đặc biệt là ở Mỹ. Đó là chưa kể đến nhiều bản dịch ra các ngôn ngữ khác trên khắp thế giới, có thể giúp chúng ta phát hiện lộ trình độc đáo cho sự thịnh vượng của riêng mình. Kinh tế học Phật giáo tập trung vào việc chuyển hóa tính cách của con người và giúp họ đạt tới an lạc, luôn học hạnh thẳng thắn, khiêm cung, biết sử dụng ngôn ngữ từ ái, biết sống đơn giản mà hạnh phúc, nếp sống từ hòa, điềm đạm, ít ham muốn và không đua đòi theo đám đông.

 

Kinh tế học Phật giáo thúc đẩy sự an khang về thể chất và sự tận hưởng niềm an lạc hạnh phúc chứ không phải tham muốn sự khoái cảm. Nhưng làm thế nào để những khái niệm trừu tượng của Phật giáo giúp chúng ta tư duy về kinh tế? Chúng ta hãy tìm hiểu sự khác biệt giữa Kinh tế học Phật giáo và Kinh tế học hiện đại và xem điều này có thể mang lại lợi ích như thế nào tại nơi Đức Phật Đản sinh (Nepal) cách nay hơn 26 thế kỷ qua.

 

Tối ưu hóa, không Tối đa hóa

 

Kinh tế học hiện đại tập trung vào hàng hóa chứ không tập trung vào con người hay khả năng sáng tạo của con người. Do đó, việc tiêu thụ hàng hóa được coi là một chỉ số quan trọng về chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, theo Kinh tế học Phật giáo thì việc tập trung sự tiêu thụ là không hợp lý. Nó chỉ có thể là một phương tiện để đến đích; mục đích cuối cùng phải là tối ưu hóa phúc lợi trong giảm thiểu sự tiêu thụ.

 

Thật vậy, ý tưởng tối đa hóa phúc lợi này có thể hấp dẫn đối với nhân dân Vương quốc Nepal cũng như toàn thế giới nói chung. Như kinh tế gia E F Schumacher đã chia sẻ rằng: "Kinh tế học hiện đại cố gắng tối đa hóa mức tiêu thụ bằng cách mô hình tối ưu về sản xuất, trong khi Kinh tế học Phật giáo nỗ lực tối đa hóa sự hài lòng của con người bằng các mô hình tối ưu hóa về sự tiêu thụ". Minh bạch, để duy trì một mô hình tối ưu của sự tiêu thụ thì cần ít sức lực hơn so với việc duy trì sự tiêu thụ tối đa. Tuy nhiên, sau khi chuyển từ sự tiêu thụ đối đa qua sự tiêu thụ tối ưu thì có thể sẽ cần đến nhiều hoạt động có ý nghĩa, ví dụ như sự cải tiến. Thay vì tiêu thụ hàng nhập khẩu đắt đỏ, chúng ta có thể tập trung vào các hoạt động nhằm thúc đẩy sự tự hoàn hảo và tăng năng suất, như là đầu tư văn hóa nghệ thuật âm nhạc, sáng tạo nghệ thuật, hoặc học một kỹ năng mới.

 

Hơn nữa, một mô hình tối ưu của sự tiêu thụ trong Kinh tế học Phật giáo ngụ ý đề cập đến phương thức sinh sống thông qua việc khai thác các nguồn tài nguyên của địa phương. Đáp ứng nguyện vọng của con người với các nguồn lực từ những nơi xa xôi có thể được coi là một hình thức của sự tham lam và là sự thất bại trong việc điều chỉnh các mối quan hệ của chúng ta với môi trường và cộng đồng. Mặc dù một nhà Kinh tế học hiện đại có thể phủ nhận lời đề xuất như thế bằng cách trích dẫn những lợi ích của thương mại và quy mô của nền kinh tế, nhưng tự hoàn thiện thông qua việc khai thác các nguồn tài nguyên địa phương có thể hạn chế cán cân thương mại ảm đạm của Nepal.

 

Ba Chức năng của Lao động

 

Một sự khác biệt cơ bản nữa giữa Kinh tế học hiện đại và Kinh tế học Phật giáo là vấn đề liên quan đến lao động. Kinh tế học hiện đại cho rằng, lao động như là "điều chẳng đặng đừng phải làm"; trong quy trình sản xuất càng ít lao động thì càng tốt. Trong quá trình sản xuất sự tự động hóa giảm thiểu lao động được coi là có hiệu quả. Ngược lại, đối với các nhà Kinh tế học Phật giáo, lao động có ba chức năng rất khác nhau để hoàn thành: cho người lao động cơ hội để sử dụng và phát triển khả năng của bản thân; đừng sống với cái tôi quá lớn bởi những khổ đau bất an trong cuộc đời mỗi người đa phần xuất phát từ chấp thủ cái tôi, cái của tôi, và không hiểu biết một cách rõ ràng như thật về chúng gây ra, khi cộng tác với những người khác trong một nhiệm vụ chung, sản xuất hàng hóa và dịch vụ cần thiết đối với đời sống Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng).

 

Những chức năng này có nghĩa sâu sắc đối với những sự gắn kết kinh tế và xã hội. Trên thực tế, chất lượng công việc của một cá nhân có thể tác động sâu sắc đến sự tồn tại của họ. Tuy nhiên, sự tự động hóa và phân chia lao động đã làm giảm ý nghĩa mà một cá nhân có thể nhận được từ công việc của mình. Theo kinh tế gia E F Schumacher: "Công việc được tiến hành một cách phù hợp trong những điều kiện của phẩm giá con người sẽ mang đến hạnh phúc cho những người làm công việc ấy và những sản phẩm của họ cũng thế".

 

Hơn nữa trong nền kinh tế hiện đại, lao động được cho là phấn đấu cho việc nhàn hạ. Tuy nhiên, giả thiết này thiếu sót một lý lẽ quan trọng liên quan đến Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng), rằng: "Công việc và nhàn hạ là những yếu tố bổ sung cho sự tồn tại của con người, việc chia tách chúng sẽ làm giảm sự hài lòng mà người ta có thể có được từ cả hai việc ấy".

 

Hiện nay, Vương quốc Nepal phải đối mặt với những thách thức trong việc nâng cao đời sống tinh thần kinh doanh trong giới trẻ, trong khi vẫn duy trì tính toàn vẹn của hệ thống nông nghiệp. Nếu chúng ta thành công một trong hai nỗ lực này, ba chức năng của công việc phải được chú ý một cách nghiêm túc.

 

Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên

 

Sự khác biệt thứ ba giữa Kinh tế học hiện đại và Kinh tế học Phật giáo, đây là cách sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Con người phụ thuộc vào sự lành mạnh của hệ sinh thái. Hệ sinh thái cung cấp cho con người và sinh vật khác nhiều dịch vụ. Sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau này được chuyển thành sự khác biệt cơ bản giữa các nguồn tài nguyên có thể tái tạo và nguồn tài nguyên không thể tái tạo. Bằng cách trông cậy vào những nhiên liệu hóa thạch, con người đã sống nhờ vào vốn, chứ không phải là nhờ vào nguồn thu nhập. Nhân dân Vương quốc nepal cũng đang đi theo phương thức đó trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên.

 

Chúng ta cho rằng những con sông của chung là có thể tái tạo được - gió mùa mang đến những trận mưa rào và những ngọn gió Tây làm gia tăng lưu lượng mưa. Tuy nhiên, sự biến đổi khí hậu đang dẫn đến những hậu quả nghịch lý về lượng mưa, về các sông băng trên dãy cao nguyên Hy Mã Lạp Sơn và những dòng suối ờ vùng trung du. Cùng với việc khai thác vật liệu xây dựng vô tội vạ tại các sườn đồi và các lòng sông, điều này có nghĩa rằng chúng ta là những ký sinh trùng sống nhờ vào nguồn vốn tự nhiên của chúng ta. Việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên của chúng ta sẽ quyết định một cách cơ bản đến cuộc sống và giá trị của chúng ta. Khi những người dân Nepal như chúng ta đang tìm cách để đạt đến thịnh vượng, chúng ta cần phải trả lời một câu hỏi quan trọng: Chúng ta muốn sử dụng các giá trị của mình để quản lý tài nguyên, hay là để các nguồn tài nguyên của chúng ta quyết định giá của chính mình?

 

Áp dụng các nguyên tắc của Kinh tế học Phật giáo không có nghĩa là từ quay lưng lại với mô hình Kinh tế hiện đại. Thay vì, áp dụng Kinh tế học Phật giáo là cải tiến và chọn lựa một lộ trình độc đáo để phát triển. Trên khắp các xã hội phương Tây, các chuyên gia vĩ đại của kinh tế hiện đại đang đánh giá lại mô hình của họ và áp dụng các yếu tố của Kinh tế học Phật giáo để kiểm định lại cách làm việc và phát triển bền vững.



Ashraya Dixit
Tác giả Ashraya Dixit




 

Tại Vương quốc Nepal, chúng ta có những cơ hội tuyệt vời, vì chúng ta không chỉ được tiếp cận với kiến thức từ khắp nơi trên thế giới mà còn là hiện thân của các giá trị Phật giáo. Chúng ta có thể bỏ qua những mô hình thất bại, tạo ra những cái mới và khuyến khích người khác làm theo mô hình của chúng ta. Nhưng trước tiên, chúng ta phải đánh giá nghiêm túc các nguồn lực có sẵn của mình và sử dụng chúng để phát triển ý nghĩa riêng của chúng ta về Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng). Theo hướng lộ trình của Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng) của đạo Phật có thể giúp tối đa hóa phúc lợi cho toàn thể nhân dân Vương quốc Nepal.

 

Tác giả Ashraya Dixit hiện là Giám đốc dự án tại Deerhold Ltd., một công ty của Mỹ cung cấp dịch vụ phát triển phần mềm và CNTT cho khách hàng trên toàn cầu. Sự khám phá của anh đã liên quan đến việc nghiên cứu sự phát triển, sử dụng và tác động của giải pháp công nghệ sẵn sằng cho thị trường tại các thị trường đang phát triển.

 

Trước đây, anh đã từng tham gia vào việc xây dựng đổi mới như một mục tiêu chiến lược của công ty, định hình mục tiêu cho các xu hướng và cơ hội toàn cầu, đồng thời thúc đẩy các công ty trở thành các dịch vụ hỗ trợ công nghệ. Trước đó, anh đã làm việc trong ngành đầu tư của Công ty First Boston Corporation, bao gồm chứng khoán toàn cầu và thúc đẩy nghiên cứu về các chủ đề đầu tư có trách nhiệm và đột phá. Ngoài ra, anh đã giúp mở một văn phòng cho nhiều công ty tìm được những nhà quản trị tài chính giỏi nhất trong các loại tài sản.

 

Tác giả Ashraya Dixit đã có học vị Thạc sĩ Kinh doanh Quốc tế từ Trường Luật và Ngoại giao Fletcher tại Đại học Tufts (Tufts University), tiểu bang Massachusetts, Mỹ. Ông cũng đã có học vị Cử nhân Văn học, Kinh tế và Toán học từ Cao đẳng Grinnell, một trường cao đẳng nghệ thuật tự do tư nhân ở Grinnell, quận Poweshiek, tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ.

 

Tác giả Ashraya Dixit là trưởng nhóm của Trung tâm Chuyển đổi Kỹ thuật số, một Chương trình Ươm tạo thuộc Diễn đàn Kinh tế Nepal, giải quyết các chủ đề xuyên suốt liên quan đến việc áp dụng kỹ thuật số và cuộc cách mạng ở các thị trường mới nổi và biên giới của châu Á và châu Phi.

 

Lip video

 

Tác giả Ashraya Dixit, chuyên viên phân tích tài chính tại Deerhold Ltd. đã thuyết trình đề tài "Back to Nepal with Impact".

https://www.youtube.com/watch?v=2BsgcDCXgXQ

 

Tác giả Ashraya Dixit

Biên dịch Thích Vân Phong

(Nguồn: The Kathmandu Post)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/11/2021(Xem: 6244)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
23/11/2021(Xem: 4369)
Buổi sáng ngày 17 tháng 11 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma là khách mời online của Cục Quản lý thảm họa quốc gia (NDMA) Ấn Độ, được chào đón bởi Giám đốc Điều hành Thiếu tướng Manoj Kumar Bindal. Ông đã cung thỉnh Ngài đăng lâm Bảo tọa chia sẻ pháp thoại với chủ đề "sự Thấu cảm và Tình thương giữa Bối cảnh Quản lý Thiên tai" (Love and Compassion in the Context of Disaster Management).
22/11/2021(Xem: 3741)
Theo thống kê của Bộ du lịch Vương quốc Phật giáo Campuchia, lượng du khách thập phương hành hương trên toàn quốc đã được ghi nhận trong ngày thứ 2 của Lễ hội Té nước. Cư sĩ Thong Khon, Bộ Trưởng Bộ Du lịch Vương quốc Phật giáo Campuchia cho biết, trong ngày thứ 2 của Lễ hội Té nước, tại các địa điểm du lịch khác nhau trong của nước đã thu hút 330.000 người. Ngoài khách du lịch trong nước, cũng có một số khách du lịch nước ngoài được ghi nhận.
21/11/2021(Xem: 3720)
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chế tác một "bản sao siêu tuyệt" bức tranh trong hang động thế kỷ thứ 7 và hai bức tượng Phật Bamiyan bị Taliban phá hủy, sử dụng kết hợp các kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật số mà họ hy vọng sẽ cứu vãn "linh hồn" của tác phẩm cho các thế hệ tương lai.
21/11/2021(Xem: 2897)
Gần đây, nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hạ lệnh đóng cửa Trường Phật học Gedeng, thuộc Tu viện Ganden Rao Denglangjie (壽靈寺), huyện Luhuo, châu tự trị dân tộc Tạng Garzê, tỉnh Tứ Xuyên, với lý do vi phạm luật sử dụng đất và thiếu cơ sở pháp lý liên quan, đồng thời hạ lệnh phá dỡ trường Phật học. Các lớp học và ký túc xá của trường, cưỡng bức toàn bộ học sinh phải trở về tư gia của họ.
18/11/2021(Xem: 2805)
Theo truyền thông quốc gia Phật giáo này đưa tin, vào ngày 14 tháng 11 vừa qua, Lễ hội Kathina cấp Quốc gia Dưới sự Bảo hộ và chủ trì của Tổng thống nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka Cư sĩ Gotabaya Rajapaksa, sự kiện được tổ chức tại các cơ sở tự viện Phật giáo Miyugunarama, Raja Maha Viharaya, Colabagama, Kurunegala.
18/11/2021(Xem: 4678)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
16/11/2021(Xem: 3525)
Viên Hoán Tiên (1887-1966), chính trị gia, nhà quân sự, vị Trưởng lão Cư sĩ Thiền Tông ngộ đạo nổi danh một thời ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa, ông đã kiến lập "Tịnh xá Duy Ma" (维摩精舍) ở Thành Đô, nơi ông tụ chúng giảng dạy Phật học và dạy thực hành thiền định, hóa độ một phương, tứ chúng đều ngưỡng mộ. Ông là vị Trưởng lão Thiền sư Cư sĩ nổi tiếng được coi là một nhân tố chính trong công cuộc phục hưng Phật giáo Trung Hoa. Những tác phẩm của ông được biên soạn, hiệu đính bởi đồ đệ thượng thủ xuất sắc Nam Hoài Cẩn như tác phẩm "Duy Ma Tinh Xá Tùng Thư" (維摩精舍叢書), "Viên Hoán Tiên Trước Thuật Tập" (袁煥仙著述集), "Linh Nham Ngữ Tiết" (靈巖語屑).
14/11/2021(Xem: 5639)
Vào ngày 11 tháng 11 vừa qua, Cư sĩ Mã Anh Cửu, cựu Tổng thống Đài Loan và đoàn tùy tùng của ông đã thân lâm viếng thăm Phật đà Kỷ niệm quán (佛陀紀念館), và thưởng ngoạn "Triển lãm đặc biệt Con đường Hải tuyến Phật giáo & Nghệ thuật Truyền thông Mới" (佛教海線絲綢之路&新媒體藝術特展) và kịch trường tương tác 360 độ để có tự thân trải nghiệm. Sau chuyến thăm thực tế này, Cư sĩ Mã Anh Cửu nói rằng, trước đây ông đã nghe nói về cuộc triển lãm này, quả thật là "Thật tuyệt vời!"
14/11/2021(Xem: 3764)
Gần đây Bảo tàng Quốc gia Bangkok vừa được tân trang, mời tất cả công chúng tìm hiểu về quá khứ, cùng chia sẻ từ thời tiền sử đến thời Đế quốc Tam Phật Tề (Srivijaya).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]