Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Triết gia Edmund Husserl học Phật pháp

24/01/202223:57(Xem: 4089)
Triết gia Edmund Husserl học Phật pháp

Triết gia Edmund Husserl

Triết gia Edmund Husserl học Phật pháp 
(Ketika Edmund Husserl Belajar Dhamma)

Nhà triết học Đức, đã thiết lập nên trường phái hiện tượng học Edmund Husserl (1859–1938) đã viết rằng "Tôi không thể phát âm" khi đọc Kinh điển Phật giáo trong bản dịch tiếng Đức của Karl Eugen Neumann (1865–1915), người đầu tiên dịch phần lớn Kinh điển Pali về kinh Phật từ bản gốc Pali sang ngôn ngữ Châu Âu (tiếng Đức), một trong những người tiên phong của Phật giáo Châu Âu. 


Triết gia Edmund Husserl lập luận rằng phương pháp Phật giáo mà ông hiểu rất giống với phương pháp của ông. Tương tự như thế, nhà triết học người Đức Eugen Fink (905-1975), người từng là trợ lý cho Triết gia Edmund Husserl và được coi là người phiên dịch đáng tin cậy nhất của Triết gia Edmund Husserl, ông nói rằng: "Các giai đoạn khác nhau về cơ bản kỷ luật Phật giáo là các giai đoạn giảm thiểu hiện tượng học"


Sau khi đọc các kinh điển Phật giáo, Triết gia Edmund Husserl đã viết một bài Tiểu luận ngắn gọn với chủ đề "Kim ngôn Khẩu ngọc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, On the Sermons of Gautama Buddha" (Über die Reden Gotomo Buddhos), trong đó có đoạn: "Một cách phân tích ngôn ngữ hoàn chỉnh của Kinh điển Phật giáo, cho chúng ta cơ hội hoàn hảo để khám phá thế giới hoàn toàn trái ngược với cách nhìn của người châu Âu, đặt bản thân vào quan điểm của họ và làm cho các kết quả năng động thực sự toàn diện, thông qua kinh nghiệm và sự hiểu biết. 


Đối với chúng ta, đối với bất kỳ ai, những người đang sống trong sự sụp đổ của nền văn hóa của chúng ta bị bóc lột và đang tìm cách để xem sự thuần khiết và chân lý của tâm linh nằm ở đâu, trong đó quyền thống trị đầy vui tươi của thế giới tự hiển hiện, thì thế giới quan "Phật giáo" này là một cuộc phiêu lưu phi thường". 


Phật giáo đồ

(Agama Buddha)


Đạo Phật - như được hiển hiện cho chúng ta từ nguồn gốc - giới luật, đạo đức học, tôn giáo thanh lọc, chuyển hóa tâm thức và hoàn thành địa vị cao nhất (Phật quả) - hiểu và tận tâm với thành quả bên trong nội tâm vững mạnh, bất khả tư nghì và cao thượng, sẽ sớm trở nên rõ ràng đối với bất kỳ độc giả nào dành cho tác phẩm. 


Chỉ có Phật giáo mới có thể so sánh được với hình thức triết học và lòng nhiệt thành tôn giáo cao nhất của nền văn hóa châu Âu của chúng ta. Bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là tận dụng (đối với chúng ta) môn học tâm linh của Ấn Độ hoàn toàn mới này, ngược lại, đã được hồi sinh và củng cố. 


Giáo sư Fred J. Hanna, Ph.D., đồng thiết kế của Chương trình Tiến sĩ về Giáo dục, Cố vấn tại Đại học Adler, ở Chicago, Hoa Kỳ, Giáo sư danh dự Tiến sĩ Lưu Quốc Anh (劉國英) đều lưu ý rằng khi Triết gia Edmund Husserl gọi đạo Phật là "Siêu việt" (Transendental), ông so sánh với hiện tượng học siêu việt của mình. Ngoài ra, việc Triết gia Edmund Husserl gọi Phật giáo là một "cuộc phiêu lưu lớn" (petualangan besar) là rất quan trọng, bởi vì ông đã đề cập đến triết học của chính mình theo cách tương tự, cụ thể là như một phương pháp luận làm thay đổi mỗi người với cách nhìn nhận thực tại cũng mang lại sự chuyển hóa của cá nhân. 


Triết gia Edmund Husserl cũng viết về triết học Phật giáo, bản thảo chưa xuất bản với tựa đề "Sokrates - Buddha". Ở đây, ông so sánh lập trường triết học Phật giáo với truyền thống phương Tây, mà đại diện là Sokrates (470–399 trước Tây lịch), một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), một trong những người đã khai sáng nền triết học phương Tây, và nhà triết gia đạo đức đầu tiên của nền tư tưởng đạo đức phương Tây. 


Triết gia Edmund Husserl đã nhìn thấy những điểm tương đồng giữa lối sống triết gia người Hy Lạp cổ đại Sokrates dựa trên câu ngạn ngữ "Hãy phản quan tự kỷ" (Kenali diri sendiri) và triết học Phật giáo. Ông cho rằng cả hai đều có cùng một lập trường, đây là sự kết hợp giữa bản chất của lý thuyết thuần túy khoa học và thái độ thực dụng hàng ngày. 


Lập trường thứ ba này dựa trên "một phương pháp thực dụng nhằm nâng cao con người, thông qua lý trí khoa học phổ quát. Triết gia Edmund Husserl cũng nhận thấy những điểm tương đồng giữa phân tích kinh nghiệm của Phật giáo và phương pháp phương pháp épochè (ngưng hãm) của riêng ông, đó là việc đình chỉ các phán đoán về các giả định siêu hình và các giả định về thế giới 'bên ngoài'" (các giả định mà ông gọi là 'thái độ tự nhiên')


Mặt khác, Triết gia Edmund Husserl cũng cho rằng, Phật giáo đã không phát triển thành một khoa học thống nhất, có thể thống nhất mọi tri thức bởi vì nó là một hệ thống đạo đức - tôn giáo và do đó không thể đủ tiêu chuẩn là một hiện tượng học siêu việt hoàn toàn. 


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: BuddhaZine)



facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5611)
Miền Bắc giáp Bangladesh, Ấn Độ, Trung Hoa. Miền đông giáp Lào, Thái Lan. Miền Nam giáp Mã Lai Á và miền Tây giáp với biển Ấn Độ. Một dãi giang sơn trãi dài qua các đồng bằng, núi non và biển cả. Miến Điện có lịch sử hơn 3000 năm tồn tại và phát triển. Ngày xưa Miến Điện được gọi là Bumua và ngày nay là Myanmar.
10/04/2013(Xem: 5131)
Thế kỷ 16, sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh nhiều năm khổ nạn giữa các thủ lãnh, sự xuất hiện của Shabdrung- Ngawang- Namgyal (1594- 1651) đã khiến Bhutan thực hiện công cuộc thống nhất toàn quốc.
10/04/2013(Xem: 13960)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với thơ ca, mỹ thuật và đời sống tâm linh của người Úc.
10/04/2013(Xem: 10231)
Hội Từ Thiện Từ Tế (Tzu Chi) dưới sự lãnh đạo của ni sư Chứng Nghiêm, một nữ tu đầy đức độ và khả kính của Phật giáo Đài Loan, đã mở một chiến dịch nhân đạo cứu trợ nạn nhân sóng thần tsumani ở các quốc gia vùng biển Ấn Độ Dương. Hội Từ Tế luôn luôn có mặt tại khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và hữu hiệu. Hội này đã cứu trợ khắp mọi nơi từ Châu Á (trong đó có Việt nam), Châu Phi, Châu Mỹ (luôn cả bắc Mỹ).
10/04/2013(Xem: 5217)
Từ thập niên 80 trở lại, Đông phương với trào lưu cải cách mở cửa đã phổ cập khắp các đại lục, khắp nơi đã diễn ra một cách sôi nổi hùng hồn. Cùng với sự nhảy vọt của nền kinh tế, trăm hoa đua nở của văn hóa và sự chuyển hình của xã hội, nhiều bậc đống lương thạch trụ quốc gia mang trong lòng nỗi âu lo và trách nhiệm cao độ, khiến họ có ý thức sâu sắc trong việc tự giác tiến hành, cải cách chấn hưng một nền văn hóa.
10/04/2013(Xem: 4918)
Vào ngày 27-6-2003, Tổ chức Văn Hoá, Xã Hội và Giáo Dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) chính thức liệt Bồ-đề Đạo Tràng vào danh sách Di Tích Văn Hoá Thế Giới (World Heritage Site), đứng hàng thứ 23 trong tổng số các công trình văn hoá tôn giáo ở Ấn-độ. Sự kiện trọng đại này đã làm nức lòng tăng ni và Phật tử trên khắp năm châu bốn biển.
10/04/2013(Xem: 13009)
Vào những năm cuối đời Ðông hán, sau khi Phật giáo truyền vào TQ, trải qua những năm chiến loạn của các triều đại như Tam quốc, Tây Tấn 16 nước và Nam Bắc triều, trong chiến tranh và khổ nạn như thế, Phật giáo đã truyền bá 1 cách nhanh chóng. Các lịch đại vương triều, từ việc giữ gìn, bảo vệ chiếc ngai vàng của mình lâu dài vững mạnh, đã biết áp dụng, lưïa chọn chính sách bảo vệ và đề xướng giáo lý Phật giáo. Do vậy, chùa chiền và số lượng tăng chúng không ngừng tăng thêm.
10/04/2013(Xem: 5718)
“This is a fight between Dhamma and A-dhamma (between justice and injustice)” -­ A member of the Alliance of All Burmese Buddhist Monks. “Đây là cuộc tranh chấp giữa chánh pháp và tà thuyết (giữa công lý và bất công)”. Lời của một Thành viên trong Liên Đoàn Phật Tăng Toàn Miến.
10/04/2013(Xem: 5626)
Ngày 27/06/2002, Unesco đã chính thức ghi nhận Tháp Đại Giác là di sản của nhân loại. Có thể nói đây là một tín hiệu đầy hoan hỷ cho cộng đồng Phật giáo trên thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Từ nay, tất cả những người con Phật không còn lo lắng trước những “bạo lực” và “cuồng tín” của các tôn giáo cực đoan đã và đang tìm cách ngăn chặn sự phát triển và hủy diệt các Thánh địa Phật giáo.
10/04/2013(Xem: 5577)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]