Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hàn Quốc suy tôn Thiền sư Tính Ba ngôi Pháp vị Đại Tông sư đời thứ 15 Thiền phái Tào Khê

19/12/202122:56(Xem: 2294)
Hàn Quốc suy tôn Thiền sư Tính Ba ngôi Pháp vị Đại Tông sư đời thứ 15 Thiền phái Tào Khê

Hàn Quốc suy tôn Thiền sư Tính Ba ngôi Pháp vị Đại Tông sư
Hàn Quốc suy tôn Thiền sư Tính Ba ngôi Pháp vị Đại Tông
sư đời thứ 15 Thiền phái Tào Khê 
 (韓國佛寶宗剎性坡大宗師被推戴為第15代宗正)

Vào ngày 13 tháng 12 vừa qua, tại tầng 4 Kỷ niệm quán Văn hóa Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc, Trụ sở Trung ương Thiền phái Tào Khê, Seoul, sau khi bỏ phiếu bầu dân chủ, khi đã đắc cử, được sự tôn kính của Tăng đoàn Thiền phái Tào Khê, Thiền sư Trung Phong Tính Ba được Tấn phong ngôi Pháp vị Đại Tông sư (법계 대종사, 法階大宗師) đời thứ 15 Thiền phái Tào Khê. Sau đó, vào lúc 15 giờ chiều cùng ngày, tại Đại hùng Bảo điển Tổ đình Tào Khê Tự, Seoul cử hành nghi thức Cáo Phật, dâng hương Ngũ phần, dâng trà thiền, dâng hoa Bồ tát Vạn hạnh cúng dường Tam bảo. 


Trung Phong Tính Ba Đại tông sư, Phương trượng Trụ trì Tổ đình Linh Thứu san Phật Bảo Thông Độ Tự, nơi tôn trí thờ Xá lợi của Đức Phật, Ngài đang trong quyết tâm thực tiễn bởi sự nghiệp giáo dục đào tạo vì tương lai thế hệ trẻ của Phật giáo Hàn Quốc, luôn quan tâm và chia sẻ những nỗi khổ niềm đau bởi những người bị nhiễm Covid-19 và những gia đình chẳng may có người thân qua đời vì đại dịch hiểm ác này. 


Ngài phát biểu rằng: "Hôm nay chư tôn giáo phẩm đã bầu chọn sơn tăng vô đức, tuy được sự ủng hộ, nhưng tông chính đại sư vẫn còn tại vị, vì vậy không cần phải nói tới nói lui nữa". Sau đó, Ngài bày tỏ cảm tưởng của mình: "Hãy tư duy bất cứ lúc nào bởi những kim ngôn khẩu ngọc của chư Phật, chư Tổ, không cần phải đa ngôn thuyết, ngôn hạnh tương ưng là thực tiễn trong tinh tấn tu hành. Ngày nay, trong bối cảnh xã hội đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, vì vậy chúng ta nhất định hành trì đồng thể đại bi hòa cùng tư tưởng Phật giáo Đại Hàn Hộ quốc An dân. Chúc tất cả mọi người thân tâm thường an lạc".


Đồng thể từ bi (동체대비, 同體大悲). Quán tưởng tất cả chúng sinh với mình là cùng một thể tính mà sinh khởi tâm từ bi bình đẳng để cứu khổ, ban vui. Bồ tát Sơ địa trở lên, coi chúng sinh là chính mình, lấy nỗi khổ của chúng sinh làm nỗi khổ của chính mình mà sinh tâm thương xót. Kinh Đại bát niết bàn nói: "Ví như cha mẹ thấy con bệnh hoạn, sinh lòng buồn khổ, thương xót rầu rĩ, không lúc nào rời. Bồ tát ma ha tát ở giai vị này (Nhất tử địa) cũng lại như thế, thấy các chúng sinh bị bệnh phiền não làm khổ, sinh lòng buồn sầu, lo nghĩ như thương con đỏ, đến nỗi các lỗ chân lông đều rướm máu".


Ngài cầu nguyện đương nhiệm Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê, trong kế sách sự nghiệp lãnh đạo "Hàng triệu nguyện lực kết thành Phật sự" (백만원력집결불사, 百萬願力集結佛事), hồi hướng viên mãn, và đã quyên tặng một trăm triệu won (100.000w). 


Nhiệm kỳ mới với thời hạn 5 năm được bầu dân chủ của Trung Phong Tính Ba Đại tông sư sẽ bắt đầu vào ngày 26 tháng 3 năm 2022. 


Ngài sinh năm 1939 tại huyện Hapcheon, tỉnh Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Ngài đảnh lễ ân sư Nguyệt Hạ Đại Tông sư (월하대종사, 月下大宗師) cầu xin thế phát xuất gia, và năm 1960 thụ giới Sa di tại Tổ đình Linh Thứu san Phật Bảo Thông Độ Tự do Ân sư Nguyệt Hạ Đại Tông sư đương vi Đàn đầu Hòa thượng; Năm 1970, Ngài thụ giới Tỳ kheo do Ân sư Nguyệt Hạ Đại Tông sư đương vi Đàn đầu Hòa thượng. 


Năm 1971, sau khi tốt nghiệp Đại học Tăng già tại Tổ đình Thông Độ Tự, Ngài đảm nhậm chức Tổng vụ Viện trưởng Xã hội, Viện trưởng Giáo vụ, Ủy viên Trung ương Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc, trụ trì Tổ đình Linh Thứu san Phật Bảo Thông Độ Tự và đã từng cống hiến Phật sự cho các chốn sơn môn cổ tự như Hy Dương sơn Phụng Nham tự (희양산봉암사, 曦陽山鳳巖寺), Gyeonggi-do, Hàn Quốc; Thiền viện Thái Cổ (태고원선, 太古禪院).


Năm 2013, được sự tôn kính của Tăng đoàn Thiền phái Tào Khê, Ngài được Tấn phong ngôi vị Nguyên lão (원로, 元老) bậc phẩm đức cao trọng vọng, Thành viên Hội đồng Trưởng lão Thiền phái Tào Khê liên khóa 5,6,7,8. 


Năm 2018, Ngài đảm nhậm Phương trượng Linh Thứu san Tòng Lâm Thông Độ Tự, bậc thiện tri thức, chỗ nương cho hàng hậu bối. 


Đặc biệt là trong sự nghiệp văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật, Ngài đã để lại rất nhiều thành tựu. Ngài là một vị học giả đã trải qua các chức vụ to trong Thiền phái Tào Khê, nhưng Ngài cũng được biết đến như vị Đại Tông Sư để lại dấu ấn trong nhiều thể loại văn hóa nghệ thuật truyền thống Hàn Quốc. 


Năm 1980, ngay khi triển lãm tác phẩm "Kim Nê Tả Kinh Thi Hóa" (金泥寫經詩化, 금니사경전시회), như một điểm khởi đầu sự nghiệp của Ngài đã trải nghiệm gần nửa thế kỷ (40 năm). Thanh thản hồn nhiên từng bước chân an lạc trong sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, Ngài không chỉ dừng lại một lĩnh vực mà còn tiếp tục khám phá nhiều thể loại nghệ thuật truyền thống Hàn Quốc. 


Tại Thụy Vân Am (서운암, 瑞雲庵), Tổ đình Phật bảo Thông Độ Tự, Ngài đã chú thích và khắc một số trong Cao ly Bát Vạn Đại Tạng Kinh (고려팔만대장경, 金高麗八萬大藏經) sau đó nung chúng thành đồ gốm, hoa cảnh, tranh Phật giáo, truyện dân gian, thậm chí hình tượng của các vị hành giả đương đại theo nhiều cách khác nhau. Sau khi trở thành phương trượng Tổ đình Linh Thức San Phật bảo Thông Độ Tự, năm 1991, Ngài lui về Thụy Vân Am nghiên cứu Cao ly Bát Vạn Đại Tạng Kinh.


Thật khó có thể tin nổi bởi hành trình dài để chế tác các thể loại văn hóa nghệ thuật là sự thành quả của Ngài. Năm 1983, sau khi mở triển lãm cá nhân đầu tiên sử dụng sơn mài, Ngài đã tổ chức một số cuộc triển lãm kết hợp giữa sơn mài truyền thống và nghệ thuật Phật giáo ở trong và ngoài nước. Khách quan đánh giá rằng cả hai bức tranh thời Phật giáo Cao Ly và Triều Tiên đều được hồi sinh thông qua tranh sơn mài của Ngài. 


Để ghi nhận những cống hiến của Ngài trong việc phát triển văn hóa, nghệ thuật truyền thống Hàn Quốc như tranh sơn mài, tranh dân gian, thư pháp, nhuộm màu thiên nhiên, năm 2017, Ngài đã nhận "Huân chương Ngọc Quán Văn Hóa" (옥관문화훈장, 玉冠文化勳章). 


Ngoài ra, vì sự phát triển văn học, năm 1984, Ngài đã nhận giải thưởng Giải thưởng Quốc gia về Văn học Nghệ thuật (한국시조문학상, 韓國時調文學賞). Từ năm 1985, Ngài đã tổ chức Hội Bách Nhật Trường (백일장, 白日場), đã mở rộng nó và vận hành nó như một cuộc thi cấp quốc gia. 


Vào năm 2018, thay cho Lễ bổ nhiệm trụ trì Tổ đình Linh Thứu san Phật Bảo Thông Độ Tự, Ngài đã quyên góp 50 triệu won cho trẻ em bị ung thư; Ung thư trẻ em là bệnh lý ác tính hiếm gặp hơn so với người lớn.


Trong một cuộc phỏng vấn đặc biệt với tạp chí ibulgyo (불교신문) vào dịp Đại lễ Phật đản, Ngài đã khuyến tấn chư tăng ni và các cư sĩ Phật tử nên cố gắng hết sức trong cương vị của mình. 


Ngài nói: "Chư tăng ni và các cư sĩ Phật tử chúng ta cần biết cách làm giảm thiểu những nỗi khổ niềm đau của chúng sinh và làm những điều có thể khiến cho họ tăng thêm sự an lạc hạnh phúc trong cuộc sống". Khi đó, Ngài cũng nêu rõ việc các cư sĩ Phật tử tích cực hỗ trợ để duy trì các đạo tràng thanh tịnh, hòa hợp như một lời nhắn nhũ trong ngày Đại lễ Phật đản. 


Ngoài ra, vào năm 2000 trên khu đất rộng hơn 50.000 mét vuông xung quanh Thụy Vân Am, Ngài đã kiến thiết Vườn Thiền, ươm mầm Hoa Bát Nhã, thường niên, nhiều người được mời đến để tổ chức lễ hội văn hóa Hoa thơm Cỏ lạ. Hằng năm vào cuối tháng 5, tại Thụy Vân Am Ngài tổ chức một lễ hội để tái hiện kỹ thuật nhuộm truyền thống và nhận thức về giấy truyền thống của Hàn Quốc. 


Năm 2013, Cao ly Bát Vạn Đại Tạng Kinh được tái tạo bằng gốm sứ và bộ Cao ly Bát Vạn Đại Tạng Kinh gồm mười sáu vạn (160.000) Tranh gốm sứ ghép mảnh đã được hoàn thành, Ngài đã được trao tặng Huân chương Quốc công của Đại Hàn Dân Quốc. 


 Chính Tông

(종정, 宗正)


Danh xưng "Chính Tông" (종정, 宗正) hay "Tông đoàn" (종단, 宗團), "Thần thánh" (신성, 神聖), "Tông thống" (종통, 宗統).v.v biểu trưng cho sự thiêng liêng của Thiền phái Tào Khê và có quyền hành, trên cương vị cao nhất để kế tục Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Chính tông của Thiền phái Tào Khê là nhà lãnh đạo xuất sắc nhất, đại diện cho Phật giáo Hàn Quốc. Trên ngôi pháp vị này với nhiệm kỳ 5 năm và có thể bầu cử dân chủ và suy tôn lại một lần. 


"Nghê hạ" (예하, 猊下) là một danh hiệu cao quý được tôn kính, để tôn vinh trên ngôi vị Chủ tịch Hội đồng Giám luật Thiền phái Tào Khê, có nghĩa là Liên hoa ngự của Đức Phật hoặc bậc Đại đạo sư. 


Với tư cách: Trình độ chuyên môn từ 45 năm trong sự nghiệp lãnh đạo và trên 70 tuổi, là vị Đại Tông sư "nắm giữ hệ thống Pháp luật" (법계, 法系) truyền thừa mạng mạch của Phật pháp. Trên ngôi pháp vị Đại Tông sư biểu tượng cho việc nắm giữ hệ thống Phật luật, truyền thừa mạng mạch của Phật pháp, trên ngôi pháp vị này không tham gia vào việc quản lý Thiền phái, nhưng có quyền can thiệp và hòa giải khi có sự cố xung đột trong Tăng đoàn, đưa ra các quyết sách chỉ thị cho Tăng đoàn về các sự kiện và các đại lễ, v.v trên cương vị "nắm giữ hệ thống Pháp luật" truyền thừa mạng mạch của Phật pháp có thẩm quyền ân xá, giảm nhẹ và phục hồi giới pháp cho những người phạm tội, ban hành giáo chỉ, phê duyệt ký quyết định tấn phong các hàng giáo phẩm, khen thưởng và kỷ luật theo quy định của Thiền phái Tào Khê. 


Ngôi pháp vị này đầu tiên là Hiểu Phong Học Nột Đại Tông sư (효봉 학눌대종사, 曉峰學訥大宗師, 1888-1966) chính thức bắt đầu từ năm 1962 khi Thiền phái Tào Khê thống nhất suy tôn với bầu cử dân chủ. Kế tiếp đời thứ hai là Thanh Đàm Thuần Hạo Đại Tông sư (청담순호대종사, 靑潭淳浩大宗師,  1902-1971), đời thứ 3, 4 là Cổ Am Tường Ngạn Đại Tông sư (암상언 대종사, 古庵祥彦大宗師, 1899-1988), đời thứ 5 là Tây Ông đường Thượng Thuần  Đại Tông sư (서옹당 상순대종사, 西翁堂 尙純大宗師, 1912-2003), đời thứ 6, 7 là Thoái Ông đường Tính Triệt Đại Tông sư (퇴옹당 성철대종사,退翁堂 性徹大宗師, 1912-1993), đời thứ 8 là Tây Am đường Hồng Căn Đại Tông sư (서암당홍근대종사, 西庵堂 鴻根大宗師, 1917-2003), đời thứ 9 là Lão Thiên đường Nguyệt Hạ Đại Tông sư (노천당 월하대종사, 老天堂 月下大宗師, 1915-2003), đời thứ 10 làTuệ Am đường Tính Quán Đại Tông sư (혜암당 성관대종사, 慧菴堂 性觀大宗師, 1920-2001), đời thứ 11, 12 là Đạo Lâm đường Pháp Truyền Đại Tông sư (도림당 법전대종사, 道林堂 法傳大宗師, 1925-2014), đời thứ 13, 14 là Chân Tế Pháp Viễn Đại Tông sư (진제법원 대종사, 眞際 法遠大宗師) và đời thứ 15 đương nhiệm Trung Phong Tính Ba Đại Tông sư (중봉성파대종사, 中峯性坡大宗師).


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 불교신문사)

 
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 3388)
Chuyến hoằng pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan vào tháng 6 năm 2007 là một duyên lành, không chừng là lần cuối của Ngài, do tuổi hạc đã cao và một lịch trình sinh hoạt hằng năm ở khắp nơi trên thế giới đầy kín.
10/04/2013(Xem: 3454)
Thật là một đại hoan hỉ khi chúng tôi xin thưa với quý vị Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sẽ trở lại Úc vào ngày 11 /06/2008 để thuyết pháp trong năm ngày tại Sydney
10/04/2013(Xem: 7063)
Cali Today News - Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nhà lãnh đạo tôn giáo và cũng là nhà lãnh đạo lưu vong Tây Tạng nói: "Dân tộc Việt Nam rất anh hùng rất đáng kính trọng. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp hơn cho Việt Nam" . Ngài đã nói như vậy khi "phái đoàn" của Nhật báo Việt Báo đến viếng thăm Ngài vào ngày 14 Tháng 9, 2006 tại Pasadena, California.
10/04/2013(Xem: 4989)
Mạc Tư Khoa, Nga – “Thi thể của Giáo trưởng Lạt ma Itigelov đã được khai quật vào ngày 10 tháng 9, năm 2002, trong khu nghĩa trang gần thành phố Ulan Ude (Liên Bang Nga). Lạt ma thị tịch và được an táng vào năm 1927, và việc khai quật này đã được thực hiện với sự hiện diện của thân nhân, viên chức, và chuyên gia.”
10/04/2013(Xem: 3978)
Có một nhà sư rất khiêm tốn, chỉ tự nhận là một người tu hành, một nhà sư Phật giáo mà thôi. Ngài tên là Tenzin Gyatso, sinh năm 1935. Nhưng người ta lại gán cho Ngài cái tước hiệu là Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIV, và Ngài đã nhận giải Nobel Hoà Bình vào tháng 9 năm 1989. Ngài rất yêu thương con người, nhân loại và dân tộc của Ngài.
10/04/2013(Xem: 4356)
Đêm Hy Mã Lạp Sơn vang lên tiếng chó sủa. Ánh sáng lập lòe bên kia sườn đồi. Dưới vòm trời sao, trên lối mòn tăm tối giữa những hàng thông, một nhóm người hành hương trong y phục tả tơi đang bước đi, miệng lẩm bẩm cầu kinh. Ngay trước lúc rạng đông, khi những đỉnh núi tuyết ở phía sau nhuộm màu hồng đậm, đám đông ở bên ngoài ngôi chùa Namgyal ba tầng ở Dharamsala, miền Bắc Ấn Độ, trở nên yên lặng.
10/04/2013(Xem: 7841)
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13
10/04/2013(Xem: 4935)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếm được nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cống hiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinh hoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạt tại các chùa không mấy liên quan với nhau. Tìm mãi thì cuối cùng qua internet, tôi đã kiếm được bài: “Phật Giáo Thịnh Suy (The Decline and Development of Buddhism)” do Sư Sayadaw U. Sumana viết.
10/04/2013(Xem: 5083)
Miền Bắc giáp Bangladesh, Ấn Độ, Trung Hoa. Miền đông giáp Lào, Thái Lan. Miền Nam giáp Mã Lai Á và miền Tây giáp với biển Ấn Độ. Một dãi giang sơn trãi dài qua các đồng bằng, núi non và biển cả. Miến Điện có lịch sử hơn 3000 năm tồn tại và phát triển. Ngày xưa Miến Điện được gọi là Bumua và ngày nay là Myanmar.
10/04/2013(Xem: 4237)
Thế kỷ 16, sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh nhiều năm khổ nạn giữa các thủ lãnh, sự xuất hiện của Shabdrung- Ngawang- Namgyal (1594- 1651) đã khiến Bhutan thực hiện công cuộc thống nhất toàn quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567