Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā

27/10/202110:16(Xem: 2724)
Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā

Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā
Đại diện Tri thức trong Truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā
(Knowledge Representation in the Nālandā Buddhist Tradition)

Từ quan điểm Phật giáo, nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) dẫn đến một chuỗi điều tra mới thú vị. Có thể nói, Tin học đại diện cho đỉnh cao nhận thức của con người, nơi tụ hội các công nghệ tiên tiến trong triết học, logic, toán học, lập trình và kỹ thuật để đưa ra những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Công trình này không chỉ đại diện cho một ngành khoa học đúng nghĩa của nó, mà còn giúp tạo ra cơ sở và cơ sở hạ tầng quan trọng, cần thiết cho sự tiến bộ trong các lĩnh vực tri thức khác của con người,  bao gồm cả khoa học vật lý và vật liệu. 

Tư duy Phật học bắt nguồn từ truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā. Truyền thống này bắt nguồn từ Ấn Độ, và với tên gọi là Đại học Phật giáo Nālandā, một trung tâm học tập bậc cao thời cổ đại, một tu viện Phật giáo lớn nằm ở vương quốc cổ Magadha, ngày nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ. 

Ngày nay, Nālandā University là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2016. Được thành lập vào thế kỷ thứ 5, Đại học Phật giáo Nālandā là nơi từng có hơn 10.000 sinh viên và 2.000 giảng sư, giảng dạy nhiều ngành học khác nhau. Đây cũng là một trong những trường đại học mang tầm vóc quốc tế đầu tiên. Những giáo lý xuất phát từ Đại học Phật giáo Nālandā đại diện cho đỉnh cao trong sự tiến hóa của tư tưởng nhân loại, cả về nhận thức 'các vấn đề liên quan đến tâm trí' cũng như các lĩnh vực vật chất và xã hội, với các thực hành logic và tổ chức cộng đồng hay còn gọi là Tăng đoàn Phật giáo (संघ). 

Một trong những khía cạnh thiết yếu bởi sự phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) là biểu diễn tri thức (KR). Biểu diễn tri thức (KR) là một chủ đề rộng lớn, bao gồm từ nhận thức đến nhận thức luận. Về mặt hình thức, nó bao gồm các phương pháp và kỹ thuật để biểu diễn logic, thành các cấu trúc có thể tính toán được, nhằm mục đích thiết kế các hệ thống thông tin số. Tuy nhiên, với nghĩa rộng, nó liên quan đến cách con người hình thành khái niệm, tiếp nhận, ghi nhớ và sử dụng các cấu trúc kiến thức khác nhau. Như vậy, nó là một lĩnh vực nghiên cứu đa dạng, có thể rút ra từ những ý tưởng và lý thuyết trong lịch sử nhân loại. 

Một sự phát triển đương đại cho sinh viên của biểu diễn tri thức (KR), để kiểm tra các hệ thống phần mềm thông minh và tự trị. Chúng thường thuộc lĩnh vực khoa học máy tính. Các kỹ thuật và công cụ biểu diễn tri thức (KR) đương đại, cụ thể vẫn có thể áp dụng cho trí tuệ nhân tạo (AI), ngày nay lần đầu tiên được chính thức hóa, và xuất bản trên các tạp chí kỹ thuật vào những thập niên 1970, nhấn mạnh sự tác động qua lại của công nghệ và triết học. 

Do đó, như chúng ta biết ngày nay hầu hết biểu diễn tri thức (KR) được phát triển cùng với trí tuệ nhân tạo (AI). Đặc biệt điều này đúng trong lĩnh vực
hệ thống chuyên gia, trong đó chuyên môn được coi là một kiến được thức tinh luyện cụ thể có so sánh với "kỹ năng", hoặc phương tiện thiện xảo trong tư tưởng Phật học. Trong biểu diễn tri thức (KR) và trí tuệ nhân tạo (AI), chủ yếu phục vụ với mục đích cung cấp các chỉ định, có thể tính toán được cho các cấu trúc logic. Điều này bao gồm đặt tên các thực thể, tiên đề và quy tắc để hỗ trợ mã hóa rõ ràng của chúng, cho phép các chức năng được máy tính hóa. Biểu diễn tri thức (KR) được phát triển trong khoa học máy tính qua các giai đoạn khác nhau 'phản ánh các xu hướng tương ứng trong tự động hóa hệ thống' mà đỉnh cao là nghiên cứu Web ngữ nghĩa. Ngày nay, Website, còn gọi là trang web hoặc trang mạng đã nhanh chóng trở thành một kho kiến thức khổng lồ có thể truy cập công khai. Điều này đã mang lại những thách thức chưa từng có, đối với việc tiếp nhận và lưu trữ kiến thức. Một khối kiến thức bao quát được gọi là kỹ thuật ontology (ontology engineering) đã ra đời, về cơ bản dựa trên các nguyên lý cốt lõi của biểu diễn tri thức (KR).
 

Kể từ khi học và biết sử dụng máy vi tính đã trở thành trọng tâm của trí tuệ nhân tạo (AI) đương đại, sự chú ý của các nhà phát triển đã không còn quan tâm đến tiêu chuẩn biểu diễn tri thức (KR), vốn được phát triển để hỗ trợ những gì, được gọi là tượng trưng cho trí tuệ nhân tạo (AI). Thay vào đó, các nhà phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) đã bắt đầu hướng đến logic nhúng nhiều hơn, nơi hệ thống logic không được trình bày rõ ràng. 

Với tư cách là một nhà nghiên cứu, trong công việc của mình tôi cố gắng giải quyết những vấn đề này bằng cách đọc nhiều, thảo luận sâu và viết. * Trong truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā có một mối quan hệ giữa biểu diễn tri thức (KR) và trí tuệ nhân tạo (AI), được coi là cái nôi của hầu hết các chốn học đường của Phật giáo đồ. Một bài báo được xuất bản cách đây 30 năm, trên một ấn phẩm kỹ thuật về trí tuệ nhân tạo (AI), đã phân tích hình thái ngữ pháp logic của ngôn ngữ Sanskrit. Nó (Briggs 1985) kết luận rằng cấu trúc tiếng Phạn như một ngôn ngữ tự nhiên cung cấp mang tính hình thức đầy đủ để hỗ trợ lý luận khoa học, giống như không có ngôn ngữ tự nhiên nào khác. Gần đây hơn, Học viện Công nghệ Ấn Độ (IITs, học viện kĩ thuật công nằm tại Delhi, Ấn Độ), nơi tôi từng là học giả thỉnh giảng, gần đây đã thông báo rằng, họ bắt đầu có kế hoạch dạy tiếng Phạn như một phần của chương trình giảng dạy công nghệ của họ. 

Cần lưu ý rằng, tiếng Phạn là ngôn ngữ gốc và là tiền thân của các ngôn ngữ khác trong truyền thống Đại học Phật giáo Nālandā, cụ thể là tiếng Prakrit, được cho là ngôn ngữ đã được sử dụng giao tiếp trong xã hội vào thời Đức Phật lịch sử. Theo Bách khoa toàn thư Britannica:

Prakrit từ tiếng Phạn: Prakrta, có nghĩa là "phát sinh từ nguồn, xảy ra từ nguồn" hoặc bản chất nguyên thủy. Chúng có thể được coi là thuộc cùng một họ ngôn ngữ, và cả ngữ pháp của chúng, với những cách khác nhau, xác định các dạng lời nói được coi là đúng hoặc chuẩn (gọi là shabda). Trong đó các thành phần ngôn ngữ được cho là được tô điểm hoặc thanh (samkrta) bằng cách tuân thủ các nguyên tắc ngữ pháp cụ thể, và như vậy dẫn đến công đức, với trái ngược và không đúng hoặc không chuẩn (các dạng apashabda) là những hư hỏng apabhramsha 'rơi rụng') có thể chấp nhận được các biểu mẫu chính xác. Bách khoa toàn thư Britannica). 

Các ngôn ngữ Prakrit được coi là một dạng ngôn ngữ bản ngữ phát sinh từ tiếng Phạn. 

Trong thời đại của chúng ta, các kỹ thuật và phương pháp biểu diễn tri thức (KR) được sử dụng để thiết kế, xây dựng và duy trì tính toàn vẹn logic trong các hệ thống thiết kế. Cũng giống như ngữ pháp được sử dụng để hỗ trợ tính toàn vẹn logic của lời nói, đây là một biểu hiện của tư duy. Trong đạo Phật, thực hành tốt được coi là "Chánh tư duy" (xem Chánh niệm và Chánh định trong Bát Chánh đạo), và phản ánh Chánh ngữ, vâng lời và tự nhiên tuân thủ Chánh tư duy, tiếp theo Chánh nghiệp. Điều này mang lại sự thống nhất về mục đích và tính nhất quán logic, điều cần thiết cho bất kỳ loại thành tựu hoặc hiện thực hóa nào trong thực hành tâm linh, cũng như tính toàn vẹn logic, cần thiết để đảm bảo chức năng chính xác của hệ thống. 

Trong khoa học máy tính, kỹ thuật bản thể học là cần thiết ít nhất ở một mức độ nào đó đối với sự phát triển của các hệ thống thông minh. Có thể đây được coi là một phần mở rộng hiện đại 'áp dụng cho tính toán' của một truyền thống lâu đời trong việc rèn luyện trí óc thông minh, mạch lạc của con người. 

Một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo, Bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna, नागार्जुन) cho là không chắc chắn về khả năng thu nhận kiến thức bởi những ngụy biện và tình trạng tự mâu thuẫn của tất cả các phương tiện thu nhận kiến thức, khi giải quyết các mối quan tâm của Bồ tát Long Thọ, các bậc triết gia sau này như Bồ tát Vô Trước, Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông, Bồ tát Thế Thân, Luận sư xuất sắc của Thuyết nhất thiết hữu bộ và Duy thức tông, Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ, Bồ tát Trần Na, Luận sư nổi tiếng của Duy thức tông, người cải cách và phát triển ngành Nhân minh học (khoảng năm 450 sau Tây lịch) bắt đầu chính thức hóa nền tảng nhận thức luận của Phật giáo. Sự chính thức hóa này, sau đó được tiếp nối bởi Triết gia Ấn Độ, nhà logic học và toán học Gangesha Upadhyaya (गंगेश उपाध्याय, cuối thế kỷ 12), người sáng lập trường Navya-Nyāya ("Logic Mới"). Mình Tattvacintāmaṇi (The Jewel of Thought trên Nature of Things), còn được gọi là Pramāṇacintāmaṇi (The Jewel of Thought Về Các Phương Tiện kiến thức hợp lệ), là nội dung cơ bản cho tất cả các diễn biến sau đó. Các nhà logic học của trường phái này chủ yếu quan tâm đến việc xác định các thuật ngữ và khái niệm của họ liên quan đến các phạm trù logic không nhị phân.

Một trong những đóng góp của Đại luận sư Bồ tát Trần Na, tác phẩm "Tập Lượng Luận" (Pramana-samuccaya, 集量論) được thúc đẩy bởi nhu cầu thiết lập các phương tiện nhận thức hợp lệ. Động lực này được thực hiện bởi Bồ tát Pháp Xứng, một trong những Luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại diện quan điểm của Nhân minh học (khoảng năm 635 Tây lịch), và rất nhiều vị học giả ủng hộ, nhà triết học của Nyaya trường phái triết học Ấn Độ Uddyotakara và nhà triết học Ấn Độ giáo và một học giả của trường phái triết học Mimamsa từ đầu thời trung cổ của Ấn Độ Kumārila (khoảng năm 500 Tây lịch). Bồ tát Pháp Xứng nhằm bảo vệ quan điểm của Bồ tát Trần Na, tuy nhiên được biết Ngài đã xuất sắc và làm lu mờ người thầy của mình. (Bhatt 1997)

Thông điệp chính cho các nhà khoa học máy tính, là mục đích chính của biểu diễn tri thức (KR) và trí tuệ nhân tạo (AI), là xác định và làm rõ ràng chức năng logic chính xác (dự định) của một hệ thống, và đảm bảo tính liên tục của nó trong suốt vòng đời. Quan điểm rộng rãi này là cần thiết để tạo ra bất kỳ loại trí tuệ nhân tạo (AI) có đạo đức nào, và để hạn chế nguy cơ dẫn đến hậu quả không mong muốn. 

Ngày nay, chúng tôi đang tham gia vào việc tạo ra và tận dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Nhưng trước đây, nhiều thế hệ học giả đã nắm bắt và đại diện cho kiến thức, mặc dù có liên quan đến trí thông minh tự nhiên. Ít nhất, chúng ta nên nhận thức được điều này, và khi thích hợp, hãy tìm kiếm nguồn cảm hứng từ những kho báu Phật pháp. Đỉnh cao sự phát triển của nhân loại, khi ngày nay chúng ta tiến bộ trong việc làm ra trí tuệ nhân tạo (AI), là sự tiếp nối của những nền tảng trước đây. 

* Vấn đề đặc biệt “Biểu diễn tri thức trí tuệ nhân tạo” (Hệ thống)

** Briggs, Rick. 1985. Tạp chí AI “Biểu diễn tri thức bằng tiếng Phạn và trí tuệ nhân tạo”. Tập 6 Tài liệu tham khảo số 1 Bhatt, S. R. 1997. “Logic và Ngôn ngữ trong Phật giáo.” Trong: Brian Carr, Indira Mahalingam (eds.), Đồng hành cùng Bách khoa toàn thư về Triết học Châu Á, London-New York: Routledge.

Tác giả nữ Tiến sĩ Paola Di Maio, một nhà hệ thống học, một nhà nghiên cứu và giám đốc của Trung tâm Hệ thống, Đại diện Tri thức, Khoa học Thần kinh và Đạo đức. Cô cũng là một thành viên tại Viện EuroSPES, Leuven, Bỉ và dành thời gian nhận những trao truyền trực tiếp. Nữ Tiến sĩ Paola Di Maio từng nhập thất tu tập thiền định tại các tu viện Phật giáo ở Hy Mã Lạp Sơn. 


Tác giả: Tiến sĩ Paola Di Maio

Biên dịch: Thích Vân Phong 

(Nguồn: 佛門網)


facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/11/2021(Xem: 3034)
Ủy ban Quốc hội và Nghị viện nước Cộng hoà Hồi giáo Pakistan đã bác bỏ một dự luật quan trọng để bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số. Điều này liên quan đến những người phụ nữ không phải tín đồ đạo Hồi, bị buộc phải cải đạo sang Hồi giáo, sau khi bị những người đàn ông tín đồ Hồi giáo bắt cóc.
23/11/2021(Xem: 6328)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
23/11/2021(Xem: 4398)
Buổi sáng ngày 17 tháng 11 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma là khách mời online của Cục Quản lý thảm họa quốc gia (NDMA) Ấn Độ, được chào đón bởi Giám đốc Điều hành Thiếu tướng Manoj Kumar Bindal. Ông đã cung thỉnh Ngài đăng lâm Bảo tọa chia sẻ pháp thoại với chủ đề "sự Thấu cảm và Tình thương giữa Bối cảnh Quản lý Thiên tai" (Love and Compassion in the Context of Disaster Management).
22/11/2021(Xem: 3761)
Theo thống kê của Bộ du lịch Vương quốc Phật giáo Campuchia, lượng du khách thập phương hành hương trên toàn quốc đã được ghi nhận trong ngày thứ 2 của Lễ hội Té nước. Cư sĩ Thong Khon, Bộ Trưởng Bộ Du lịch Vương quốc Phật giáo Campuchia cho biết, trong ngày thứ 2 của Lễ hội Té nước, tại các địa điểm du lịch khác nhau trong của nước đã thu hút 330.000 người. Ngoài khách du lịch trong nước, cũng có một số khách du lịch nước ngoài được ghi nhận.
21/11/2021(Xem: 3755)
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chế tác một "bản sao siêu tuyệt" bức tranh trong hang động thế kỷ thứ 7 và hai bức tượng Phật Bamiyan bị Taliban phá hủy, sử dụng kết hợp các kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật số mà họ hy vọng sẽ cứu vãn "linh hồn" của tác phẩm cho các thế hệ tương lai.
21/11/2021(Xem: 2923)
Gần đây, nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hạ lệnh đóng cửa Trường Phật học Gedeng, thuộc Tu viện Ganden Rao Denglangjie (壽靈寺), huyện Luhuo, châu tự trị dân tộc Tạng Garzê, tỉnh Tứ Xuyên, với lý do vi phạm luật sử dụng đất và thiếu cơ sở pháp lý liên quan, đồng thời hạ lệnh phá dỡ trường Phật học. Các lớp học và ký túc xá của trường, cưỡng bức toàn bộ học sinh phải trở về tư gia của họ.
18/11/2021(Xem: 2834)
Theo truyền thông quốc gia Phật giáo này đưa tin, vào ngày 14 tháng 11 vừa qua, Lễ hội Kathina cấp Quốc gia Dưới sự Bảo hộ và chủ trì của Tổng thống nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka Cư sĩ Gotabaya Rajapaksa, sự kiện được tổ chức tại các cơ sở tự viện Phật giáo Miyugunarama, Raja Maha Viharaya, Colabagama, Kurunegala.
18/11/2021(Xem: 4712)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
16/11/2021(Xem: 3563)
Viên Hoán Tiên (1887-1966), chính trị gia, nhà quân sự, vị Trưởng lão Cư sĩ Thiền Tông ngộ đạo nổi danh một thời ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa, ông đã kiến lập "Tịnh xá Duy Ma" (维摩精舍) ở Thành Đô, nơi ông tụ chúng giảng dạy Phật học và dạy thực hành thiền định, hóa độ một phương, tứ chúng đều ngưỡng mộ. Ông là vị Trưởng lão Thiền sư Cư sĩ nổi tiếng được coi là một nhân tố chính trong công cuộc phục hưng Phật giáo Trung Hoa. Những tác phẩm của ông được biên soạn, hiệu đính bởi đồ đệ thượng thủ xuất sắc Nam Hoài Cẩn như tác phẩm "Duy Ma Tinh Xá Tùng Thư" (維摩精舍叢書), "Viên Hoán Tiên Trước Thuật Tập" (袁煥仙著述集), "Linh Nham Ngữ Tiết" (靈巖語屑).
14/11/2021(Xem: 5775)
Vào ngày 11 tháng 11 vừa qua, Cư sĩ Mã Anh Cửu, cựu Tổng thống Đài Loan và đoàn tùy tùng của ông đã thân lâm viếng thăm Phật đà Kỷ niệm quán (佛陀紀念館), và thưởng ngoạn "Triển lãm đặc biệt Con đường Hải tuyến Phật giáo & Nghệ thuật Truyền thông Mới" (佛教海線絲綢之路&新媒體藝術特展) và kịch trường tương tác 360 độ để có tự thân trải nghiệm. Sau chuyến thăm thực tế này, Cư sĩ Mã Anh Cửu nói rằng, trước đây ông đã nghe nói về cuộc triển lãm này, quả thật là "Thật tuyệt vời!"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]