Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ nát

06/09/202110:00(Xem: 3697)
Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ nát

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô 
Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ nát
(Их Хэлмэгдүүлэлт)

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ

Đàn áp Stalin tại Mông Cổ (Их Хэлмэгдүүлэлт) đề cập đến một thời kỳ bạo lực và khủng bố chính trị ở Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ từ năm 1937 đến năm 1939. 

Stalin là vị chúa tể độc tài đã từng cai trị Liên bang Xô Viết bằng bàn tay sắt trong suốt 30 năm trời (1922-1953). Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, là Đại nguyên soái, Tổng tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô.  

 

Các cuộc đàn áp là một phần của thanh trừng Stalin (còn được gọi là Đại thanh trừng) đang diễn ra trên khắp Liên Xô cùng lúc đó. Các cố vấn Bộ Dân ủy Nội vụ (Народный комиссариат внутренних дел, NKVD) của Liên Xô, dưới sự chỉ định danh nghĩa của Nguyên soái Khorloogiin Choibalsan (Хорлоогийн Чойбалсан), một lãnh tụ cộng sản của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, đã bức hại các cá nhân và tổ chức bị coi là mối đe dọa đối với cuộc cách mạng Mông Cổ. Như ở Liên bang Xô Viết, các phương pháp đàn áp bao gồm tra tấn, các vụ xử án, hành quyết và giam cầm trong các trại lao động cưỡng bức. Nạn nhân bao gồm những người bị buộc tội ủng hộ chủ nghĩa Lamaism (Phật giáo Tây Tạng), chủ nghĩa dân tộc Mông Cổ, Tu sĩ Phật giáo, quý tộc, giới trí thức, những người bất đồng chính kiến. Những người dân tộc Buryats và người Kazakh cũng bị tổn thất lớn do sự thù ghét của người Nga với các dân tộc này.

Sau cuộc Cách mạng Mông Cổ năm 1921, cuộc đấu tranh trong Đảng Cách mạng Nhân dân Mông Cổ (MPRP) đã dẫn đến một loạt các cuộc thanh trừng chính trị bạo lực. Vào tháng 8 năm 1922, Dogsomyn Bodoo (Догсомын Бодоо), Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa nhân dân Mông Cổ và 14 người khác đã bị xử tử bởi các điệp viên Liên Xô mà không bị xét xử. Hai năm sau, người tiếp quản Dogsomyn Bodoo, Chủ tịch của Đảng nhân dân cách mạng Mông Cổ (MPRP) Soliin Danzan, bị xử tử ngay trong Đại hội Đảng lần thứ 3. Năm 1928, một số thành viên Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP) nổi bật bao gồm Ajvaagiin Danzan, Jamsrangiin Tseveen, Tseren-Ochiryn Dambadorj, và Navaandorjiin Jadambaa, bị cầm tù hoặc bị đày trong một cuộc thanh trừng rộng rãi khi đất nước phát động đàn áp Giáo hội Phật giáo. Sau khi những biện pháp quyết liệt này dẫn đến những cuộc nổi dậy trên khắp đất nước, một số nhà cầm quyền cứng rắn nhất của MPRP bao gồm Zolbingiin Shijee, Ölziin Badrakh, và Thủ tướng Tsengeltiin Jigjidjav bị đổ lỗi và trục xuất khỏi đảng.

Năm 1933–34, trong những gì được xem như diễn tập cho các cuộc đàn áp 1937-1939, Tổng thư ký MPRP Jambyn Lkhümbe và các đảng viên khác, bị cáo buộc về âm mưu với gián điệp Nhật Bản. Hơn 1.500 người đã bị kết án và 56 người bị xử tử.

Đến năm 1934, Thủ tướng Mông Cổ Peljidiin Genden, mệt mỏi vì sự thống trị của Liên Xô, đã trì hoãn Hiệp ước song phương với Liên Xô, trong đó cho phép quân đội Liên Xô đóng quân trong nước Mông Cổ. Ông cũng chống lại áp lực của Moscow kêu gọi giết hơn 100.000 vị Lạt Ma Phật giáo của nước này, mà Stalin gọi là "kẻ thù nhân dân". Thất vọng bởi sự bướng bỉnh của Genden, Stalin đã ủng hộ tướng Khorloogiin Choibalsan làm Nguyên soái và đứng đầu Bộ Nội vụ. Vào tháng 3 năm 1936, Choibalsan dàn xếp việc loại bỏ Genden vì phá hoại các quan hệ Mông Cổ - Xô viết. Genden đã bị bắt và bị gửi đến Moscow, nơi ông bị xử tử một năm sau đó. Mặc dù Anandyn Amar đã trở thành Thủ tướng Chính phủ, nhưng Choibalsan lại trở thành người mạnh nhất trong cả nước.

Trong ba năm tiếp theo, những cố vấn của Liên Xô trong Bộ Nội vụ đã hướng dẫn Choibalsan lên kế hoạch và thực hiện các cuộc thanh trừng. Chẳng bao lâu sau đó, 23 vị Lạt Ma cấp cao Phật giáo Mông Cổ đã bị bắt. Sau một phiên tòa kéo dài một năm, họ đã bị hành quyết công khai vào đầu tháng 10 năm 1937. Khi Tổng trưởng Viện kiểm sát Mông Cổ phản đối việc truy tố các vị Lạt Ma, ông ta cũng bị bắt và sau đó bị bắn.

Vào tháng 8 năm 1937, Nguyên soái Demid, 36 tuổi, vị tướng có sự nổi tiếng mà Choibalsan luôn ganh ghét, đã chết trong đáng ngờ. Ngay sau đó, Choibalsan thâu tóm đồng thời cả chức Tổng tư lệnh quân đội Mông Cổ và Bộ trưởng Quốc phòng. Ngày hôm sau Choibalsan, với tư cách Bộ trưởng Nội vụ, đã ban hành Lệnh 366 tuyên bố rằng nhiều người ở Mông Cổ "đã bị ảnh hưởng bởi các điệp viên Nhật Bản." Cùng tháng đó Stalin đã ra lệnh đóng quân 30.000 quân đội Hồng quân ở Mông Cổ và phái một phái đoàn lớn của Liên Xô đến Ulaanbaatar dưới sự ủy thác của Mikhail Frinovsky. Frinovsky đã thực hiện rất hiệu quả đại thanh trừng ở Liên Xô. Việc bắt giữ 65 quan chức cao cấp và giới trí thức vào đêm ngày 10 tháng 9 năm 1937 báo hiệu sự ra đời của sự thanh trừng một cách nghiêm túc. Buổi thử nghiệm đầu tiên được tổ chức tại Nhà hát Trung tâm của Ulaanbaatar từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 10 năm 1937. 13 trong số 14 người bị cáo buộc đã bị kết án tử hình.

Trong 18 tháng, Choibalsan đã chấp thuận và thực hiện giết hại hơn 18.000 vị Lạt Ma. Các nhà sư không bị hành quyết đã bị đưa vào các lực lượng vũ trang Mông Cổ hoặc bị đưa vào trại lao động cưỡng bức trong khi 746 cơ sở tự viện Phật giáo của nước này bị phá hủy. Hàng nghìn các nhà trí thức, chính trị gia và bất đồng chính kiến ​​được gắn nhãn "kẻ thù của cuộc cách mạng", cũng như các dân tộc Buryats và Kazakh cũng bị giết. 25 người từ các vị trí hàng đầu trong đảng và chính phủ đã bị xử tử, 187 từ lãnh đạo quân sự, 36 trong số 51 thành viên của Ủy ban Trung ương bị giết. Theo mô hình Nga, Choibalsan đã mở các trại tù gulags ở nông thôn để bắt giam những người bất đồng chính kiến. Choibalsan thường xuyên bị say sưa bởi việc tra tấn và thẩm vấn những kẻ phản đối, bao gồm cả bạn bè và đồng chí cũ, khiến ông bị người dân Mông Cổ gọi là ''bạo chúa khát máu''.

Các cuộc thanh trừng tạm lắng vào tháng 8 năm 1938. Choibalsan trở nên điên loạn bởi giết chóc và phải trải qua sáu tháng (tháng 8 năm 1938 - tháng 1 năm 1939) hồi phục ở Moscow và Sochi, nơi ông được gặp Voroshilov, Yezhov, và Stalin. Khi trở về Mông Cổ, Choibalsan theo chỉ thị của Liên Xô lại thanh trừng thủ tướng Amar. Choibalsan tuyên bố Amar "đã giúp các nhà chống chính phủ, phản đối việc bắt giữ họ, và bỏ bê việc bảo vệ biên giới. Ông phản bội đất nước của mình và là kẻ phản bội cuộc cách mạng." Sau một chiến dịch tuyên truyền phối hợp, Amar bị bắt giữ 7 tháng 3 năm 1939 và được gửi đến Liên Xô, nơi mà sau này ông bị Troika của Liên Xô bị xử tử.

Với việc loại bỏ Amar, Choibalsan trở thành lãnh đạo lớn nhất Mông Cổ, giữ đồng thời chức Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Chiến tranh, và Tư lệnh trưởng các lực lượng vũ trang Mông Cổ. Để đảm bảo ở vị trí của mình, Choibalsan đã chối bỏ trách nhiệm về các cuộc thanh trừng, đổ lỗi cho thứ trưởng bộ nội vụ Nasantogtoh. Sau đó, đến lượt các tay chân của Choibasan bị bắt và bị giết, bao gồm Luvsansharav, Bayasgalan, Dashtseveg, và Luvsandorj. Dogsom và Losol, (hai thành viên sống cuối cùng của bảy thành viên sáng lập ban đầu của MPRP), cũng bị bắt. Dogom đã bị xử tử năm 1941. Losol qua đời trong một nhà tù của Liên Xô trước khi vụ án của ông được đưa ra xét xử.

Trước khi thanh trừng kết thúc vào đầu năm 1939, các tầng lớp xã hội Mông Cổ gần như bị phá tan bị trong khi phần lớn di sản văn hóa của Mông Cổ nằm trong đống đổ nát. Khoảng 18.000 vị Lạt Ma Phật giáo đã bị kết án tử hình trong khi hàng nghìn người khác bị buộc phải vào quân đội Mông Cổ. Hơn 700 cơ sở tự viện Phật giáo đã bị phá hủy. Tầng lớp người cách mạng cũ, được xem là người theo chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa, đã bị loại bỏ thay vào đó là những lãnh đạo tay sai của Liên Xô; 25 người từ các vị trí hàng đầu trong đảng và chính phủ đã bị xử tử (bao gồm cựu thủ tướng Peljidiin Genden và Anandyn Amar), 187 từ lãnh đạo quân sự, và 36 trong số 51 thành viên của Ủy ban Trung ương bị thanh trừng.

Vào thời điểm qua đời vào năm 1952, Choibalsan được coi một anh hùng, một người yêu nước. Sự giận dữ của công chúng đối với bạo lực của thanh trừng rơi chủ yếu vào Liên Xô và Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), với Choibalsan họ dành cho ông cái nhìn thông cảm như một con rối với ít sự lựa chọn nhưng phải làm theo chỉ dẫn của Moscow. Tuy nhiên, với sự kết thúc của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa vào năm 1990, nhiều sự thật phơi bày đã chứng tỏ Choibalsan thực chất là một lãnh đạo khát máu, trực tiếp thực hiện thanh trừng nhưng sau đó chối bỏ trách nhiệm. Năm 1991, hàng loạt các ngôi mộ tập thể được phát hiện gần Mörön, và năm 2003 ở Ulaanbaatar. Xác chết của hàng trăm vị Lạt Ma và thường dân đã được khai quật, tất cả đều bị giết chỉ bằng một cú bắn vào sọ. Đồng thời, đã có những nỗ lực phối hợp của nhiều nhóm khác nhau để khôi phục lại nhiều ngôi chùa và tu viện bị phá hủy trong các cuộc thanh trừng.

Cuộc Đàn áp Dã man tại Mông Cổ bởi Stalin Lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô Hàng vạn nhà sư bị giết hàng nghìn ngôi chùa đổ


Kể từ khi cuộc Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ (Ардчилсан хувьсгал), đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc xem xét, và phân tích việc đàn áp chính trị. Tuy nhiên, nhiều thắc mắc vẫn chưa được giải đáp. Vấn đề quan trọng và khó giải quyết nhất là ai là thủ phạm, trách nhiệm của họ phải làm gì. Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi này, cần phải tăng cường nghiên cứu và trước hết là cung cấp quyền truy cập miễn phí vào các kho lưu trữ. 

Điều này sẽ giúp xác định tội lỗi của cá nhân, Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP) và Đảng Cộng sản Liên Xô. Liên quan đến vấn đề này, cần phải tổ chức một cuộc hội thảo khoa học công khai rộn rãi về quá khứ lịch sử tội ác của bành trướng Cộng sản Liên Xô. Điều này sẽ cho phép người dân Mông Cổ hiểu rõ hơn về lợi ích của một xã hội dân chủ. Đảng Dân chủ Mông Cổ (Ардчилсан Нам), nổi lên từ các cuộc biểu tình năm 1990, có thể chịu trách nhiệm dẫn đầu cuộc tham vấn cộng đồng. Đến nay Đảng Dân chủ Mông Cổ đã mắc phải sai lầm trong việc đánh giá những sai lầm trong quá khứ của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (MPRP), và trong việc phân tích sự đàn áp chính trị dã man do Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Stalin cầm đầu. Khi Đảng Dân chủ nắm quyền Mông Cổ, có thể tăng cường công việc này. Ví dụ, Ủy ban Xã hội Dân sự của Bang Atonement, khi đó đã có cơ hội được chuyển đổi thành một Ủy ban độc lập. 

Về hoạt động và tổ chức của Ủy ban, quý vị có thể xem công việc của Ủy ban xét duyệt tài liệu của Bộ Quốc phòng Đức tại Đức Quốc. Roland Young, Chủ tịch của tổ chức, nói về bản chất công việc của tổ chức: "Chúng ta càng hiểu rõ về chế độ Cộng sản độc tài, chúng ta càng có thể xây dựng nền dân chủ tốt hơn". Ở đây cần lưu ý rằng kể từ khi cuộc Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ cho đến nay, nhưng từ dân chủ vẫn không mất đi ý nghĩa đối với đất nước con người Mông Cổ. Việc kiểm điểm vụ đàn áp chính trị vẫn chưa kết thúc. Cần phải tổ chức công việc này như một quá trình quy mô lớn có sự tham gia của xã hội. 


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Konrad Adenauer Stiftung)

facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2022(Xem: 4121)
Ung Chính lên ngôi lấy hiệu "Thuận Trị Hoàng đế, 順治皇帝" từ nhỏ đã thích đọc kinh sách Phật giáo, quảng giao tăng chúng, tinh thông Phật lý. Vua học thiền với Quốc sư Chương Gia, được hướng dẫn Thiền tọa liên tục trong hai ngày, đương thời Quốc sư Chương Gia (章嘉國師) khen ngợi vua có Chủng Tính Tối Thượng Thừa, khuyến khích bế quan nhập Thất Thiền tu, 14 ngày đêm miên mật tham cứu công án thoại đầu...
08/01/2022(Xem: 6578)
Bengal cổ đại là một trung tâm chính của Phật học, nghệ thuật và chủ nghĩa đế quốc; quả thực, đạo Phật là nền tảng của di sản văn hóa và ngôn ngữ của Bengal - bài thơ đầu tiên ở Bengali là Charyapada, được sáng tác bởi Chư tôn thiền đức Tăng già Phật giáo thời bấy giờ. Các Charyapada là tập hợp các bài thơ Thần kỳ, những bài tán thán sự chứng ngộ trong Kim Cương thừa truyền thống của Phật giáo mật tông ở các nơi Assam, Bengal, Bihar và Orissa. Theo các học giả đương đại, thuật ngữ Dharma trong tiếng Bengal có nghĩa là "Bauddha Dharma" (Buddhadharma) hoặc Phật pháp (佛法) và thuật ngữ Dharmapuja có nghĩa là "Buddhapuja". Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở nhiều nơi khác nhau của Ấn Độ, nơi trú ẩn cuối cùng của Phật giáo là ở Bengal.
08/01/2022(Xem: 7664)
Các trung tâm giáo dục Phật giáo ở Ấn Độ và Sri Lanka như Đại học Phật giáo Nālanda và Đại học Phật giáo Mahāvihāra đã đem lại một nguồn năng lượng trong sự nghiệp giáo dục tuyệt vời. Không chỉ duy trì mạng mạch Phật giáo, các trung tâm giáo dục Phật giáo còn tạo ra một xã hội hòa bình ở hầu hết các quốc gia châu Á trong hơn 25 thế kỷ qua.
06/01/2022(Xem: 5994)
Vương quốc Phật giáo Bhutan là quốc gia duy nhất đặt hạnh phúc vào cốt lõi cấu trúc chính sách công. “Tổng Hạnh phúc quốc gia” (GNH) không chỉ mang tính kế thừa ấm áp trong ánh dương trí tuệ và tươi mát, trong suối nguồn từ bi Phật giáo; mà còn là tiêu chí không thể thiếu đối với an ninh văn hóa, và chính trị của quốc gia.
06/01/2022(Xem: 7435)
Phong trào Thanh niên Hồi giáo Malaysia hay Angkatan Belia Islam Malaysia (ABIM) đã cung thỉnh nhà lãnh đạo tinh thần lưu vong của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma tham gia diễn đàn về các vấn đề biến đổi khí hậu tại một cuộc đối thoại được tổ chức từ ngày 15 đến 16 tháng 1 năm 2022, theo đưa tin từ thestar.com.my ngày 3 tháng 1 vừa qua. Ngài sẽ cùng tham gia với các học giả đa ngành nổi tiếng trong các lĩnh vực nghiên cứu Hồi giáo, Phật giáo, đạo đức sinh học và khoa học môi trường.
06/01/2022(Xem: 3673)
Tổng công ty phát triển du lịch Telangana (Telangana Tourism Development Corporation), có trụ sở tại bang Telangana, miền trung Ấn Độ đã công bố kế hoạch cập nhật trong việc phát triển Sriparvatarama hay Buddhavanam – công viên chủ đề di sản Phật giáo, công viên chủ đề Phật giáo đầu tiên ở Ấn Độ với những tổ hợp miêu tả các sự kiện lớn trong cuộc đời Đức Phật cũng như các câu chuyện tiền thân Đức Phật. Buddhavanam tọa lạc tại Nagarjunasagar cách Hyderbad khoảng 159 km về phía đông nam, đã tiết lộ một kho tàng di tích Phật giáo cổ đại, dự kiến mở cửa sớm, mặc dù ngày khánh thành vẫn chưa được công bố.
04/01/2022(Xem: 9279)
Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.
04/01/2022(Xem: 5412)
Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
03/01/2022(Xem: 4483)
Lời Giới Thiệu: Bài viết “How a Vietnam War veteran became a Zen Buddhist monk” (Tiến trình một cựu chiến binh Hoa Kỳ thời Cuộc Chiến VN trở thành một Thiền sư Phật giáo) trên đài ABC Radio National là của hai tác giả Karen Tong và Meredith Lake viết cho mục Soul Search trên đài ABC Radio National. Bản dịch ra tiếng Việt do Nguyên Giác thực hiện như sau.
03/01/2022(Xem: 5605)
Lần đầu tiên tôi được cảm giác "Hòa bình"*, như một câu khẩu hiệu nhóm nhạc, trở lại vào sau giữa thế kỷ 20 thập niên 1950 từ các nhạc sĩ be-bop trong làng nhạc jazz khu vực Toronto, Canada, những người đã quen với việc giao tiếp bằng biệt ngữ Tiểu văn hóa (Hipster) và được mã hóa. "Hòa bình" biểu thị việc cố gắng không trở nên nổi khùng trong thế giới điên cuồng thát loạn, tàn nhẫn, bất cần. Chúng tôi đang tổn thương tâm lý và chúng tôi cần được an ủi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]