Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga

17/08/202109:53(Xem: 2689)
Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga

Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga
(Universitas Buddhis Pertama di Rusia)

Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga 1

Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin (tiếng Indonesia: Universitas Buddhis Dashi Choinkorlin (Tiếng Tây Tạng: Tashi Chokhor Ling “Tanah Keberuntungan Tempat Perputaran Roda Dharma”), là trung tâm giáo dục nâng cao tọa lạc tại tu viện Ivolginsky Datsan, nước Cộng hòa Buryatia thuộc Liên bang Nga (Tây Siberia, gần Hồ Baikal), cơ sở tự viện của Tăng đoàn Truyền thống Phật giáo ở Nga.

Tu viện Ivolginsky Datsan nằm trong thung lũng xin đẹp ven sông Ivolga, cách thủ đô Ulan Ude của Buryatia khoảng khoảng 35 km. Đây là cơ sở tự viện Phật giáo đầu tiên được xây dựng sau phong trào tiêu diệt tôn giáo của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Liên Xô, được khởi xướng từ những thập niên 1917 về sau, mặc dù hầu hết các tòa nhà trong khuôn viên ngôi Tu viện được xây dựng từ những thập niên 1970, các hoạt động tôn giáo vẫn được thực hiện từ năm 1946. 


Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga 4

Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin được thành lập vào năm 1991, và là một phần trong khuôn viên của Tu viện Ivolginsky Datsan. Đầu tiên được đặt theo danh hiệu của Pandita Khambo Lama, Damba Darzha Zaiaev (1710-76), người lãnh đạo tinh thần dân tộc, nhà lãnh đạo Phật giáo đầu tiên từ miền tây Cộng hòa Buryatia thuộc Liên bang Nga, và là Buryat Lama đầu tiên hoàn thành nền giáo dục Phật giáo cổ đại ở Tây Tạng. 

Cơ sở giáo dục này được thành lập bởi Tăng đoàn Truyền thống Phật giáo Nga, như một biểu hiện của sự phục hưng, phát triển Phật giáo tại Nga, và quan tâm đến giá trị triết học Phật giáo ở Nga. Nhiệm vụ chính của trường Đại học này là phục hưng nền giáo dục truyền thống Phật giáo và châu Á tại Nga, đồng thời đào tạo các Lạt Ma từ các tu viện Phật giáo tại Cộng hòa Buryatia thuộc Liên bang Nga, những người sùng mộ đạo Phật, những nhà dịch thuật, những người thực hành y học dân tộc cổ truyền (Buryat: Amchi).

Trong chuyến công du, viếng thăm Buryatia, H.E. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gia trì sái tịnh các tòa nhà Đại học Phật giáo, và chúc phúc cát tường đến các bị Giáo sư và sinh viên, để họ tiếp tục tích lũy phúc đức, trí tuệ và góp phần phục hưng Phật giáo tại Liên bang Nga. 

Năm 1999, Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin được chính quyền địa phương cho phép, tiến hành các hoạt động giảng dạy và học trong các lĩnh vực giáo dục tôn giáo. 5 năm sau, trường đổi danh hiệu thành Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin, và được phép mở rộng trở lại. Theo chính sách cho Giáo dục Đại học Nga, trường Đại học xác nhận cung cấp giáo dục cho các cấp bậc học vị Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ. 

Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin có bốn chuyên khoa; Triết học, Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông, Nghệ thuật Điêu khắc và Y học. Sinh viên sẽ nắm vững Triết học Phật giáo, Nhận thức luận, Phật giáo Mật tông, Nghi lễ, Điêu khắc, Y học và Chiêm tinh học, dựa trên hệ thống khoa học giáo dục của trường phái Gelugpa thuộc giáo dục Phật giáo Tây Tạng. 

Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga 2

Họ cũng ghi lại phụng vụ và các bài học cũ từ các tác phẩm tiếng Buryat, tiếng Tây Tạng và tiếng Anh, bao gồm lịch sử, tiểu sử, bài học máy tính và các giáo dục khác. Khóa học này được giảng dạy bằng tiếng Tây Tạng tiếng Buryat và tiếng Nga. Trường Đại học này có kế hoạch bổ sung các môn học theo các môn được giảng dạy trong các tu viện Phật giáo trước cách mạng Buryat. 

Sau khi tốt nghiệp đại học, sinh viên (Bur: khuvarak) sẽ nhận được Chứng chỉ giáo dục Đại học Phật giáo bằng cấp Lama, và nếu họ có cơ hội để nâng cao kiến thức của mình, có thể chấp nhận các ứng viên triết học Phật giáo (Bur: Gebshe) và học vị Tiến sĩ Triết học Phật giáo (Bur: Gabzhu).

Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga 5

Gebshe là một tước hiệu Buryat, tương đương với Geshe của truyền thống Gelugpa, cũng có trình độ song song với trình độ học vấn chính thức chung của ông: Cử nhân Triết học Phật giáo (Tib: Geshe Rabjampa), Thạc sĩ Triết học Phật giáo (Tib: Geshe Dorampa), Tiến sĩ Phật học Triết học (Tib: Geshe Lharampa).

Gabzhu là phiên bản Buryat của Kachu, một danh hiệu tiếng Tây Tạng dành cho những sinh viên xuất gia, đã học toàn hệ thống giáo dục, bao gồm các phần của Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông, và đã trải nghiệm qua các cuộc thi. Đôi khi trong tu viện Gelugpa ở Lhasa, Kachu, Ấn Độ được xếp ngang hàng với Geshe Lharampa. 

Hiệu trưởng danh dự của Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin là ngài Lama Ganjur, Hiệu trưởng là ngài Dashibaldanov Dymbryl Bagsha, và các giáo sư giảng viên là Geshe tốt nghiệp từ Đại học Tu viện Drepung Gomang ở Nam Ấn Độ.

Trường Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin này có một số chi nhánh tại Buryatia, nơi các sinh viên tương lai được đào tạo. Hơn 200 Khuvarak từ Buryatia, Chita, vùng Irkutsk, Tuva, Kalmykia, Altai, Mông Cổ, Ukraine, Belarus và Bắc Ossetia đang theo học tại đây. 

Khái lược Đại học Phật giáo Đầu tiên tại Nga 3

Họ đã tham gia vào buổi lễ tại Tu viện Ivolginsky Datsan, vì vậy họ đã có được kiến thức để tổ chức buổi sinh hoạt tu học Phật pháp và các nghi lễ tôn giáo. Sau khi đăng ký, các giới tử Sa di sẽ thực hành các giới nguyện của Sa di (Tib: Getsul), liên quan đến cơ quan quản lý, bài phát biểu và cũng có thể thực hiện các cụ túc giới, Tỳ kheo và Bồ tát giới (Tib: Gelong) một cách tự nguyện. 

Các Lama tốt nghiệp Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin, thực hành tâm linh tại các Tu viện ở Buryatia, Tuva, Kalmykia, St.Petersburg, và tại các trung tâm Phật giáo ở Nga. Một số là, giảng sư Triết học Phật giáo, trong khi những người khác dạy tiếng Tây Tạng tại các trường Đại học Phật giáo khác. 

Trường Đại học Phật giáo Dashi Choinkorlin tích cực hợp tác với nhiều cơ sở giáo dục khác, bao gồm Đại học Tu viện Drepung Gomang ở Ấn Độ, ngôi chùa đầu tiên ở Mogolia, Gandan Tegchengling, Học viện Phật giáo tại Agitsky Datsan ở Chita Oblas, Nam Siberia, Học viện Giáo dục Đông phương tại Trường Đại học Bang Buryat. 

Năm 1741, được coi là năm bước ngoặt trong lịch sử hình thành Phật giáo với tư cách là một tôn giáo Buryat. Hoàng hậu Ekaterina Petrovna, Nữ hoàng và Đấng cầm quyền chuyên chính của toàn Đế quốc Nga, (Trị vì: 9 tháng 7 'lịch cũ 28 tháng 6' năm 1762 – 17 tháng 11 'lịch cũ 6 tháng 11' năm 1796), đã ký Sắc lệnh công nhận Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông, là một trong những tôn giáo chính thức tại Nga. Một bang có 150 vị Lạt Ma đã được chính thức phê duyệt, được miễn thuế. Và những người Datsans trở thành trung tâm của sự phát triển triết học, y học và văn học Tây Tạng tại Buryatia. 

Trong gần hai thế kỷ, Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông đã tích cực phát triển, ngày càng thêm đông Phật tử. Sau cuộc cách mạng năm 1917, khi những người Bolshevik lên nắm quyền, một thời kỳ suy tàn của truyền thống Phật giáo của nhân dân Buryat bắt đầu. Dưới thời Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền, các cơ sở tự viện Phật giáo đều bị đóng cửa và phá hủy, các vị tăng sĩ Phật giáo bị đàn áp.

Cách mạng 1989 và sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã đánh dấu sự kết thúc chiến tranh lạnh, với phần thắng thuộc về các quốc gia phương Tây, theo chủ nghĩa tư bản do Hoa Kỳ dẫn đầu.  

Một số cựu quốc gia Cộng hòa Xô Viết vẫn giữ quan hệ gần gũi với Nga, và đã thành lập những tổ chưc đa phương như CIS, Cộng đồng kinh tế Á Âu, Liên bang quốc gia (Union State), Eurasian Customs Union và Eurasian Economic Union để nâng cao kinh tế và hợp tác an ninh. Còn những quốc gia cộng hòa Xô Viết ở vùng Baltic đã gia nhập Liên minh châu Âu và NATO. 

Áng mây vô thần cực đoan tan rã, sau cơn mưa trời lại sáng, vào cuối thế kỷ 20, những thập niên 1990, sự phục hưng của Phật giáo mới bắt đầu. 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: BuddhaZine Indonesia)

facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2014(Xem: 34134)
Cuốn PHẬT GIÁO KHẮP THẾ GIỚI, do Tỷ khưu Nguyên Tạng viết, là một đề tài hấp dẫn mà đáng lẽ phải có từ lâu. Ðối với người con Phật ở Việt Nam / châu Á thì sự kiện nổi bật nhất ở nửa cuối thế kỷ XX không hẳn là cuộc cách mạng Tin học, mà là sự phát triển ngoạn mục của Phật giáo tại Tây AÂu và Bắc Mỹ. Thực ra, cuộc cách mạng giác ngộ nhân chủ khởi nguyên từ hậu bán thế kỷ XVIII là do sự thức tỉnh của giới trí thức phương Tây sớm biết tìm đến với Ðạo Phật, và đã lái lịch sử thế giới đi vào con đường giải thoát thân phận con người khỏi khổ đau, mê tối, và giải phóng các dân tộc nhược tiểu thoát cảnh thù địch, lạc hậu – Phải chờ hơn hai thế kỷ.
16/10/2014(Xem: 10484)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
02/09/2014(Xem: 10304)
Các tổ chức cá nhân trên thế giới đã tập hợp để bày tỏ lo ngại ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, bởi mối đe dọa gần đây của nhà nước Hồi giáo (IS). Ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, là một ngôi Chùa Tháp Phật giáo quy mô, miền Trung đảo Java, Indonesia.
17/08/2014(Xem: 25684)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 8599)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
23/07/2014(Xem: 7151)
Bằng việc cho phép phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, Đức Phật 2.500 năm trước đã đặt phụ nữ bình đẳng với nam giới ở Ấn Độ. Nhưng ngày nay ở hầu hết các quốc gia Phật giáo châu Á nữ tu đang chiến đấu một trận chiến khó khăn để được công nhận là người truyền bá Giáo pháp. Một người phụ nữ Nepal có thể đã vô tình thay đổi nhận thức này bằng cách hát về Giáo pháp.
23/07/2014(Xem: 4905)
1500 người tham gia cầu nguyện nạn nhân Malaysia Airlines MH17 Phật Quang Sơn, Trụ trì Tuệ Phong pháp sư (慧峰法師) chính giữa, Tuệ Nghi pháp sư (慧宜法師) bên phải, Tuệ Trạch Pháp sư (慧澤法師) bên trái, ba vị dẫn đoàn 1500 Thiền sinh, Trại sinh Thiền học Quốc tế cùng đến trước Phật đài, thắp nến để cầu nguyện cho các nạn nhân chuyến bay MH17 Malaysia Airlines.
28/05/2014(Xem: 5958)
Đảo Jeju, Hàn Quốc; vịnh Hạ Long, Việt Nam; Thác Iguazu (Bra-xin và Ác-hen-ti-na), Đảo Komodo (Indonesia), Rừng mưa Amazon và Sông Amazon, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa (Philippines) và Núi Bàn (Nam Phi) được bình chọn là "Bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới” vào cuối năm 2011.
26/05/2014(Xem: 10701)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
01/05/2014(Xem: 5596)
Nổi tiếng là bộ Kinh Phật khắc trên gỗ lớn hàng đầu thế giới, Tripitaka Koreana từng được tổ chức UNESCO liệt vào hàng di sản văn hóa cao quý nhất của xứ bình minh yên tĩnh. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử để tồn tại cho đến tận bây giờ, bộ Kinh Phật này năm nay vừa tròn 1000 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]