Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật học trong sứ mạng kiến tạo lại một nền văn hóa

10/04/201312:30(Xem: 4421)
Phật học trong sứ mạng kiến tạo lại một nền văn hóa


Phật học trong sứ mạng kiến tạo lại một nền văn hóa

Phật Nhựttrước tác

Hương Trí dịch

Từ thập niên 80 trở lại, Đông phương với trào lưu cải cách mở cửa đã phổ cập khắp các đại lục, khắp nơi đã diễn ra một cách sôi nổi hùng hồn. Cùng với sự nhảy vọt của nền kinh tế, trăm hoa đua nở của văn hóa và sự chuyển hình của xã hội, nhiều bậc đống lương thạch trụ quốc gia mang trong lòng nỗi âu lo và trách nhiệm cao độ, khiến họ có ý thức sâu sắc trong việc tự giác tiến hành, cải cách chấn hưng một nền văn hóa. Cùng với nhịp điệu này, Phật giáo từ chỗ bị lãng quên lại được chú trọng, bước lên ngang hàng với kết cấu văn hóa đa nguyên, càng ngày càng được xem trọng bởi những thành phần tri thức trong xã hội. Đứng từ góc độ xây dựng một nền văn hoá lí tưởng, Phật giáo đặc biệt là nội dung tư tưởng văn hóa - Phâït học, mang một sứ mạng vô cùng trọng đại trong việc xây dựng nền văn hóa trong buổi giao thời giữa hai thế kỉ, loé hiện một viễn cảnh huy hoàng xán lạn.

Từ triều đại Thương Chu cho đến ngày nay, văn hoá Trung Quốc phát triển trong sự đấu tranh mâu thuẫn giữa chính sách chuyên chế của văn hóa nhất nguyên và thực tế tồn tại của văn hóa đa nguyên. Một khi văn hóa nhất nguyên phát triển mạnh, thì văn hóa xã hội sẽ vì thế mà bị xơ cứng và đi đến sụp đổ. Cục diện cạnh tranh của văn hóa đa nguyên trong thời kì này là tất yếu, để trở thành thời đại hoàng kim phồn vinh thịnh vượng. Phật giáo là một văn hóa ngoại lai, xuất hiện ở Trung quốc khi Nho học thoái hóa vào thời Nho học chuyên chế đời Tây Hán, khi mà xã hội đang chìm ngập trong hoàn cảnh của nguy cơ tín ngưỡng. Từ khi Phật giáo từ phương Tây truyền vào Trung Quốc, đã mang đến cho truyền thống văn hóa Trung Quốc sự khởi phát mạnh mẽ về thái đôï, phương pháp tư duy mới về nhân sanh và phương thức sống, khiến cho những địa hạt văn hoá khô cằn trì trệ trở nên phơi phới tràn đầy sức sống, thúc đẩy sự cải cách sáng lập của Đạo giáo và sự ra đời của tân Nho học, đó là Ngụy Tấn huyền học và Tống Minh lí học, hình thành kết cấu văn hóa tam giáo Thích Nho Đạo. Sau khi văn hóa chuyên chế Nho học phát triển mạnh trở lại, thì Thích Nho Đạo và cả xã hội phong kiến Trung Quốc dần dần trở nên bế tắc không lối thoát, cuối cùng thì văn hóa Tây Phương ồ ạt mở đường, phá tan cục diện nặng nề mà Lỗ Tấn tỉ dụ là“ønhà sắt then gài”, khiến Trung quốc trở lại thời kì trăm nhà đua tiếng của thời đại Xuân Thu chiến quốc, Tùy, Đường, Ngụy và Tấn. Phật giáo bị suy vong đến cùng cực, nhưng trong thời kì rối ren của sự gặp gỡ giữa hai nền văn hóa Đông - Tây lại được phục hưng. Bấy giờ nhân tài đông đảo, nhiều học thuyết lần lượt ra đời, đồng thời xuất hiện nhiều hiêïn tượng cải cách đổi mới. Tư tưởng của các học thuyết và phương pháp hoằng truyền đều xuất hiện dưới hình thức và nôïi dung mới mà trước đây chưa từng thấy, mang màu sắc của sự tái xuất hiện Phật giáo thời đại nhà Đường.

Phật giáo Trung Quốc trong thời kì đổi mới phục hưng, trong những cuộc chiến loạn của đại lục, trong sự phá hoại nhiễu loạn của những nghịch duyên “cải cách văn hóa” , đã bị những thương tổn nặng nề, và đã từng đối diện với nguy cơ của sự diệt vong. Thế nhưng ở Hương Cảng, Đài Loan, tinh thần nhân gian Phật giáo trong suốt thập niên 20 đã bước đi từng bước vững chắc và trở nên phong phú đa dạng nhiều màu sắc, mang lại cho hơn 1/3 người dân trong xã hội sức mạnh của niềm tin và sự sùng mộ, trở thành một trong những vai trò chủ yếu của văn hóa đa nguyên. Cục diện bế cang tỏa cảng của đại lục cuối cùng cũng được mở cửa, theo đó mà trở về với chính thống, cải cách mở cửa, tư tưởng văn hóa lại xuất hiện một không khí ấm áp của trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng, làm điểm mốc cho lịch sử Trung quốc bước vào một thời đại văn hóa huy hoàng. Sự giống nhau giữa giới tư tưởng Trung quốc cuối thế kỉ và đầu thế kỉ là ở chỗ làm kinh đôïng lòng người. Người dân Trung quốc nhờ tấm lòng rộng mở, đã thâu nạp tất cả học thuyết Hải ngoại, làm cho truyền thống tư tưởng Bách gia phục hưng trở lại, mở rôïng tầm nhìn để cải cách tư duy. Chuyên chế Nho học đã trở thành quá khứ, mấy mươi triệu lòng người đã sản sinh tín ngưỡng về “chân không”.

Sự bảo đảm pháp luật của tự do tín ngưỡng tôn giáo đã mang đến cho Phật giáo cơ hôïi phục hưng. Mười mấy năm trở lại, Phật giáo ở đại lục dần dần hồi phục, đã có số lượng Tòng lâm tự viện lớn, hơn hai mươi Phật học viện, hai mươi mấy chủng loại tạp chí Phật giáo, đào tạo Tăng tài với số lượng khả quan, đặt nền tảng vững chắc hơn cho sự phát triển và chấn hưng. Phâït học là yếu tố quan trọng của truyền thống văn hóa Trung quốc, ngày càng được xem trọng. Nghiên cứu Phật học từ chỗ bị xem nhẹ đã trở thành sự quan tâm chú ý của rất nhiều người, không ít thành phần trí thức thuộc giới khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn đã chuyên tâm nghiên cứu sâu về Phật học. Hàng trăm thành phần tri thức Phật giáo có phẩm cách đôïc lâïp đã được hình thành.

Nhìn từ phạm vi toàn cầu, Phật giáo càng có cơ hội tốt nhất trong việc hoằng truyền và chấn hưng. Cuộc cách mạng Tư bản chủ nghĩa và khoa học kĩ thuật công nghiệp đã đánh tan cục diện văn hóa nhất nguyên của Cơ đốc giáo có mặt từ lâu ở Tây phương. Phật giáo được truyền nhập vào các nước Âu Mỹ gần một trăm năm nay, đã bước đi từng bước trong sự phát triển ổn định, đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo mai hậu. Tai nạn do hai lần đại chiến thế giới vàø cuộc đấu tranh giai cấp gây ra cho nhân loại toàn cầu, khiến cho những người thuộc văn hóa Tây phương phản tỉnh một cách sâu sắc rằng văn minh khoa học cận đại cho đến văn hóa Hi Lạp cổ và Cơ đốc giáo“đã chết ở Thượng đế”, văn hóa Tây phương đã trở nên thất vọng trong việc cứu thế và phụng hiến cho khoa học. Đối với việc kì vọng văn hóa Đông phương cứu vớt nhân loại ra khỏi những khủng hoảng bế tắc của tâm lí, thì Phật giáo là niềm hi vọng duy nhất. Sau thập niên 80, theo đà quá độ của vật chất hóa và sự phản tỉnh của công nghiệp hóa đã thâm nhập đến trào lưu hiện đại và sự cân bằng của sinh thái, đã làm cho trào lưu hồi qui tôn giáo ở một số quốc gia đã trở nên lớn mạnh như một làn sóng. Hương Cảng, Đài Loan cùng với đại lục Trung Quốc trước sau đều hòa nhập vào tư triều toàn cầu tính, hình thành một Phật giáo được phục hưng với thế cục lớn mạnh.

Tiến sĩ Thang Nhân Bỉ dùng nhãn quang sâu sắc của nhà lịch sử học, sau khi làm một cuộc khảo sát lịch sử văn minh nhân loại, đã rút ra kết luận, sự phát khởi tôn giáo là suối nguồn sức sống của các văn minh nhân loại, suối nguồn sức sống của xã hội vị lai tất nhiên cũng là tôn giáo, tôn giáo này phải thỏa mãn những nhu cầu mới của nhân loại. Ông nói rằng, thỏa mãn những nhu cầu mới của nhân loại, chính là làm thỏa mãn tinh thần khoa học và tinh thần triết học của nhân loại, vừa có thể cứu vớt những nguy hại của phương Tây, vừa có thể cứu giúp những cảnh cùng đường tuyệt lối của Đông phương. Điều đó có thể giúp chúng ta biện rõ và khắc phục sức mạnh của các tội ác do tham dục dẫn đầu, uy hiếp nghiêm trọng sự sinh tồân của nhân loại. Trong việc xây dựng lại một nền văn hoá đa nguyên, thì Đại thừa Phật học gánh vác một trọng trách đặc thù, chủ yếu biểu hiện những phương diện sau đây:

I-Văn minh tự giác cao độ. Mấy trăm năm gần đây, văn hoá nhân loại đặc biêït là sự phát triển của văn minh vật chất càng ngày càng nhanh, nhưng nhìn từ chỉnh thể, hoạt đôïng của sáng tạo văn hóa nhân loại dường như đang còn trong trạng thái mù quáng, bị sự ép buộc của lực lượng văn hóa dị biệt, không ngừng chinh phục tự nhiên và giải quyết những mâu thuẫn giữa tự nhiên giới với con người. Kết quả là vật chất tài phú tuy tăng lên rất mạnh, nhưng lại chiêu cảm sự báo thù vô tình của giới tự nhiêndẫn đến sự mất cân bằng của sinh thái, do đó mâu thuẫn giữa con người càng trở nên gay gắt, không ăn nhập gì với “tinh thần nhà vườn” của chính mình. Đối với những câu hỏi “ làm thế nào” tuy đã có nhiều giải đáp, nhưng đối với câu hỏi “tại sao” lại còn tỏ ra mờ mịt không hiểu bằng người xưa; đối với đường lối, mục đích sáng tạo văn minh, hậu qủa của việc sáng tạo hoạt động, và đối với chỗ đứng của tự thân trong vũ trụ, thì nhân loại mất đi sự tự giác sáng suốt, cũng thiếu mất năng lực khống chế hoạt động sáng tạo của tự thân. Đây là sự thiếu sót đáng tiếc lớn nhất của văn minh nhân loại. Trong lúc đó, giá trị tuyệt hảo của Phật giáo, đầu tiên là ở chỗ dùng trí tuệ siêu việt khai sáng thiền học, xem toàn vũ trụ là trung tâm điểm, trầm tĩnh nhìn vào địa vị con người trong vũ trụ và vấn đề căn bản của nhân sanh, chỉ rõ ra chỗ chưa hoàn bị của nhân sanh, mục đích cuối cùng là phá tan những thống khổ trước mắt mà hướng đến hạnh phúc vĩnh hằng. Những mâu thuẫn giữa người với người, giữa người với tự nhiên tuy là những chướng duyên trực tiếp làm chướng ngại thực hiện mục tiêu của nhân loại, nhưng hai loại mâu thuẫn này cũng chính là điểm tựa làm bàn đạp để giải quyết những mâu thuẫn cơ bản. Chỉ cần thực hiện những thay đổi hoàn mãn của tự thân, thì tất cả những mâu thuẫn tự nhiên sẽ được giải quyết hoàn toàn, bấy giờ hạnh phúc vĩnh hằng của mục tiêu văn minh mới được thưc hiện. Nếu chỉ biết hướng ngoại tìm cầu trong khi mang hoài bảo chinh phục tự nhiên, thì khó mà giải quyết được những mâu thuẫn tự nhiên, do vậy mà không thể thoát khỏi những khổ đau triền miên. Trí tuệ quán triệt được đại thể của nền văn minh Phật học, là cái gốc an thân lập mệnh của toàn nhân loại, có khả năng mang lại cho con người cái gọi là khả năng quan sát những hoạt động sáng tạo của văn hóa, phản tỉnh tự thân để giải quyết ba mối quan hệ lớn, con người với chính mình, người với người, người với tự nhiên.

II- Như thật giác tri đối với tự tâm và tự ngã. Tìm hiểu thân tâm của chính mình, hay là chân chánh đi tìm cầu chính mình, sẽ được xem trọng bởi triết học và khoa học trong tương lai. Phật học dùng“như thật tri tự tâm”để giải quyết những vấn đề căn bản tồn tại của nhân loại. Phật học không những tỉ mỉ phân tích giải thích đối với tám thức, 55 tâm sở của tâm lí con người, mà còn biện minh được chân tướng của chân ngã giả ngã. Thêm vào đó còn có sự chứng nghiệm của thiền định có thể khống chế tham vọng của tâm, tự tịnh tâm và tự nhận thức được bổn tâm, thể chứng được sự đặc thù của tự ngã, nhờ đó mà thấu triệt vô minh, phát hiện được tự ngã chân chánh. Tinh thần này tất yếu sẽ được xem trọng, đề xướng để nhằm giải quyết những sa đọa về đạo đức của nhân loại trong hiện tại và tương lai.

III -Nhân văn chủ nghĩa, khoa học tinh thần. Tinh thần của Đại thừa Phật học siêu việt lên mọi giới hạn của không gian thời gian, cực lực đề cao tinh thần tất cả chúng sanh đều bình đẳng, đều có Phật tính, nhấn mạnh tinh thần xem tự thân là “hải đảo”, xem pháp là chỗ quay về, chủ trương y vào sức mạnh của chính mình, nương vào chân lí tự thanh lọc thân tâm để tự giải thoát chính mình, và bình đẳng phổ độ chúng sanh. Tinh thần chủ nghĩa nhân văn là tôn trọng và quan tâm cao độ đối với chúng sanh, trong các tôn giáo được gọi là độc nhất vô nhị, rất dễ được toàn nhân loại thừa nhận. Tính chất triết lí của Phật học không ngừng được khoa học phát hiện và tán thành, bởi vì tư duy và phương pháp thực chứng của Phật giáo khế hợp với khoa học. Đặc tính phi hữu thần luâïn, xem trọng lí trí chứng nghiệm và tinh thần chủ nghĩa nhân văn của Phật học, có thể nói là siêu việt tôn giáo, rất có khả năng thích ứng và thỏa mãn nhu cầu tôn giáo của nhân loại trong thời đại khoa học. Sự hoàn thiện của Phật học trong việc xem nhẹ cuộc sống vật chất, đề cao việc nắm vững tri thức kĩ thuật “ngũ minh”, đặc biệt là công xảo minh để lợi ích chúng sanh có thể bổ sung và cứu vớt sự phát triển phiến diện của văn minh khoa học Tây phương.

IV-Trí tuệ siêu việt. Cho đến hôm nay, rõ ràng nhân loại vô phương khống chế những tâm lí như hận thù, tật đố, tàn nhẫn, tham dục, và hàng loạt các loại tội ác khác. Đó chính là nguyên nhân căn bản của thảm họa chiến tranh. Hầu hết các loại văn hóa và học thuyết tuy rằng đã đưa ra các phương pháp chữa trị những căn bệnh thâm căn cố đế của con người, nhưng không thể chữa trị tận nguồn gốc của căn bêïnh. Phật học dùng huệ nhãn để nhìn lại tự tâm, nhìn thẳng vào bản chất của những tâm lí tham dục ngu si ngã mạn tật đố, và thiết lập trí tuệ Bát Nhã siêu việt, có khả năng chuyển hóa ngũ độc phiền não thành Giới Định Huệ , có thể khắc phục được tội ác của nhân loại. Phâït học còn dùng trí tuệ Bát Nhã để thống nhất lí trí với tình cảm, chủ trương vô duyên đại bi, không trú tướng bố thí, hành những hạnh khó hành, hi sinh phụng hiến, phát tinh thần tinh tiến dõng mảnh “ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục”

V-Kết cấu đa nguyên đa tầng và tinh thần khế lí khế cơ. Kết cấu Phật học không đồng với những tôn giáo khác. Phật học là lập thể kết cấu đa nguyên đa tầng. Nội dung rộng lớn, pháp môn đa dạng, trong qúa trình hoằng truyền đã hình thành nhiều bộ phái với phong cách không đồng, vừa chú trọng thực hiện cải thiện nhân sanh, lại vừa chú trọng siêu việt nhân sanh, liễu sanh thoát tử; vừa chú trọng nương vào tự lực giải thoát theo tinh thần của nhị thừa và thiền tông, lại vừa xem trọng sự cứu đôï của tha lực theo tinh thần Tịnh độ tông và Mật tông; vừa có triết lí thâm sâu, tư biện nghiêm mật, có các học phái như Duy thức Trung Quán, Hoa Nghiêm, Thiên Thai mà chỉ có bậc thượng trí mới có thể thâm hiểu, lại có hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm có thể thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng cho tầng lớp bình dân. Phâït học còn nhấn mạnh thuyết Pháp giáo hóa cần phải khế lí khế cơ, điều này khiến Phật giáo luôn tùy duyên uyển chyển, thích ứng với mọi hoàn cảnh. Phật học còn có tinh thần chủ trương viên dung và không tranh chấp, biết hấp thụ một cách có chọn lọc và sáng tạo những tinh hoa văn hóa khác. Tính chất viên dung, bao dung và ứng biến của Phật giáo chính là chỗ vượt trôïi nổi bật so vơí những nền văn hóa khác. Điều này đã khiến Phật giáo được truyền ba đi khắp năm châu một cách ôn hòa, ít bị trở ngại lực, nghiễm nhiên trở thành bậc Thầy minh triết cứu tinh cho toàn nhân loại.

Nói tóm lại, Phật học lấy đề tài vĩnh hằng của văn minh nhân loại làm trung tâm, là tinh thần siêu việt không gian thời gian, có thể giải quyết những căn bản về trí tuệ và kĩ thuật của văn minh, bao hàm tính chất tôn giáo khoa học và triết học mà lại vừa siêu việt tính chất tôn giáo khoa học và triết học. Tính chất đặc biệt và ưu thế văn hóa của Phật học đã khiến cho Phâït giáo dù có trải qua vô tận của thời gian cũng vẫn luôn mang lại cho con người cảm giác vô cùng mới mẽ, cho nên Phật giáo đủ tư cách gánh vác sứ mạng trọng đại trong việc xây dựng lại một nền văn hóa cho toàn nhân loại trong tương lai.

Người xưa nói rằng: người hoằng dương đạo, chẳng phải đạo hoằng dương người. Xây dựng, hoằng dương một nền Phật học hiện đại có khả năng gánh vác trọng trách xây dựng kiến tạo một nền văn hóa mới cho thế giới trong tương lai, mấu chốt là ở chỗ cần số đông người nghiên cứu thăm dò thực tiễn. Để có thể hoàn thành sứ mạng trọng trọng đại ấy, thời gian ít nhất phải trải qua mười năm. Bên cạnh đó, điều cần yếu bậc nhất là phải nhanh chóng bồi dưỡng một số lượng lớn nhân tài thật sự có đức hạnh, có trách nhiệm với sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Đó là nhiệm vụ cấp thiết nóng bỏng trước mắt được đặt ra cho giới tri thức, giới Phật giáo Trung quốc nói riêng và toàn cầu nói chung.

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2022(Xem: 4464)
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 15 tháng 2 năm 2022, Pháp sư Diệu Tạng Giám tự Phật Quang Sơn Tây Phương Tự cùng đoàn Phật tử đã tổ chức buổi lễ truyền Tam quy Tam bảo và Ngũ giới cho các quân nhân tại Căn cứ Huấn luyện Thủy quân Lục Chiến, San Diego, Hoa Kỳ. Trước khi cử hành nghi lễ, Pháp sư Diệu Tạng giảng ý nghĩa Tam quy, Ngũ giới, gia trì chúc phúc cát tường cho các quân nhân luôn an trú trong chánh niệm và trong quân lữ luôn hùng dũng trong sự nghiệp giữ vững an ninh quốc gia.
17/02/2022(Xem: 4438)
“Glocalization” là một thuật ngữ, một ngôn ngữ lai giữa toàn cầu hóa và bản địa hóa, sự xuất hiện đồng thời của cả khuynh hướng phổ cập hóa và cụ thể hóa trong các hệ thống xã hội, chính trị và kinh tế đương đại. (Joachim Blatter & Munro 2013) Toàn cầu hóa đã được sử dụng rộng rãi theo cách tiêu cực, để giải thích những hậu quả không mong muốn đương thời, do nỗ lực của các cơ sở kinh tế và chính trị xuyên quốc gia, từ các liên minh quân sự và kinh tế như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cho các tập đoàn đa quốc gia như Huawei, McDonald's, Nestle, Starbucks và Toyota. Mặt khác, bản địa hóa đã nhận được sự ưu ái của công chúng và truyền thông bởi nó được sự tôn trọng rõ ràng đối với sự đa dạng, bảo tồn di sản và truyền thống địa phương và 'đôi khi' quan tâm đến lợi ích của thiểu số.
13/02/2022(Xem: 2558)
Diễn đàn "Hài hòa đa nguyên Tôn giáo Thế giới của Liên Hợp Quốc 2022" đã diễn ra vào ngày 3 tháng 2 vừa qua, do Quốc tế Phật Quang Sơn, Liên Hợp Quốc, liên minh châu Phi và các tổ chức phi chính phủ cùng tham gia, đặc biệt mời các đối tác xã hội dân sự và các tổ chức tôn giáo, Pháp sư Tuệ Đông, trụ Trì Tây Lai Tự, Phó Tổng Thư ký Quốc tế Phật Quang Sơn đại biểu Phật giáo phát biểu: "Đến năm 2022 là trọng yếu, đánh dấu kỷ niệm chu niên lần thứ 10, tiêu chí Quốc tế Phật Quang Sơn hài hòa hội nhập hoạt động Liên tôn Quốc tế. Đại dịch Covid-19 hiểm ác đã đặc giả thiết không đúng đắn về tất cả sự sống trên Trái đất, gây ra những thách thức chưa từng có trên quy mô toàn cầu, chủ đề năm nay "Niềm tin và tinh thần lãnh đạo, phản kháng nạn kỳ thị và xung đột trong quá trình Phục hồi Đại dịch", kiến lập những nhịp cầu xuyên biên giới, bằng cách tập hợp các nhà lãnh đạo tôn giáo và tinh thần để truyền cảm hứng cho các dân tộc trên thế giới, kế tục trí lực để thúc đẩy sự nghiệp phát triển một
13/02/2022(Xem: 4433)
Ông Holland Kotter, đồng trưởng ban phê bình nghệ thuật trên tờ New York Times, đã đưa ra một đánh giá tuyệt vời về cuộc triển lãm. Trong đó, Holland Kotter kể lại chuyến đi đến Nhật Bản vào năm 1983, nơi lần đầu tiên ông trải nghiệm khi tương tác với các Phật tử đang làm việc được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Tokyo: "Khi tôi gặp một pho tượng Phật Đương lai Hạ sinh Di Lặc được tạc bằng gỗ tuyệt xảo từ thế kỷ thứ 9, một du khách đến thăm tôi đã nhanh chóng vỗ tay hai lần, một điều gì đó (tôi sẽ tìm hiểu) mà những du khách đến các ngôi tự viện Phật giáo để tôn vinh vị Phật hay vi Bồ tát nào đó". (New York Times)
10/02/2022(Xem: 7139)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, bậc đạo sư kính yêu, vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam với tầm nhìn xa trông rộng đã an nhiên viên tịch, trụ thế 97 xuân. Ngài đã và đang là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. Mặc dù phải nhẫn nhịn cả đau khổ và số phận lưu đày bao thập kỷ, Ngài vẫn liên tục tuôn trào suối nguồn từ bi tâm, luôn thắp sáng ánh dương quang trí tuệ cho thế giới nhân loại được tươi mát và ấm áp.
10/02/2022(Xem: 5008)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vong ở Ấn Độ. Trong giai đoạn 1949-50, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gửi một đội quân đến xâm lược đất nước của tôi. Trong gần một thập kỷ, tôi vẫn là nhà lãnh đạo chính trị cũng như tinh thần của người dân và cố gắng thiết lập lại mối quan hệ hòa bình giữa hai quốc gia của chúng tôi. Nhưng nhiệm vụ được chứng minh là bất khả thi. Tôi đã đi đến một kết luận không mấy vui vẻ rằng tôi có thể phục vụ người dân của mình tốt hơn từ bên ngoài.
10/02/2022(Xem: 7219)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
09/02/2022(Xem: 18113)
Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam Sử Lược (trọn bộ hai tập, do Hòa Thượng Giới Đức biên soạn)
08/02/2022(Xem: 4261)
Tại làng baho swabi, quận Swabi, nay là Khyber Pakhtunkhwa, các nhà khảo cổ và Bảo tàng KP đã phát hiện một Bảo tháp Phật giáo 1800 tuổi, các di vật và đồ tạo tác. Theo Daily Pakistan, đã được phát hiện hơn 400 cổ vật và Bảo tháp Phật giáo có niên đại 1800 năm.
05/02/2022(Xem: 3115)
Vào ngày 19 tháng 1 vừa qua, Cư sĩ Gotabaya Rajapaksa, Tổng thống nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka đã trao giấy Quyết định bổ nhiệm Thượng tọa Dhammakitti, vị tăng sĩ Phật giáo sinh ra tại Sri Lanka, có quốc tịch Hàn Quốc làm Tổng quan Phật giáo Hàn Quốc-Sri Lanka. Đây là lần đầu tiên Chính phủ Sri Lanka bổ nhiệm một vị tăng sĩ Phật giáo làm kênh giao lưu với Đại Hàn Dân Quốc ở cấp quốc gia và trao quyền Tổng quan Phật giáo Hàn Quốc-Sri Lanka. Việc bổ nhiệm Thượng tọa Dhammakitti với trách nhiệm nêu trên có ý nghĩa quan trọng bởi Chính phủ Sri Lanka đã chứng nhận vị tăng sĩ này đã đóng góp vào việc giao lưu quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia Phật giáo Hàn Quốc-Sri Lanka như một kênh liên lạc chính thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567