Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ni giới Đài Loan vận động hủy bỏ Bát Kỉnh Pháp

10/04/201312:26(Xem: 4412)
Ni giới Đài Loan vận động hủy bỏ Bát Kỉnh Pháp

 

lotus_4NI GIỚI ĐÀI LOAN VẬN ĐỘNG
HỦY BỎ “BÁT KỈNH PHÁP”

Du học tăng tại Đài Loan
---o0o---

Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp”.

Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.

1)Xã hội phát triển theo xu hướng nam nữ bình quyền.

Đài Loan đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng phát triển từ phương tây, do đó trong xã hội ngày nay quyền bình đẳng luôn được phụ nữ Đài Loan vận động và tranh đấu. Phong trào nữ quyền ở Đài Loan đã đạt được những thành tựu nhất định. Nữ giới dần có địa vị cao trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan điểm “nam nữ bình quyền”đã được tuyệt đại đa số quần chúng ủng hộ và nó cũng tác động vào sau cánh cổng chùa đến tầng lớp ni giới của Đài Loan.

2)Chế độ quân bị ảnh hưởng đến sự phát triển về nhiều mặt của chư tăng.

Đài Loan luôn ở trong tư thế sẵn sàng có chiến tranh nên Luật nghĩa vụ quân sự (quân dịch) được áp dụng chặt chẽ đến tất cả nam giới. Nam công dân Đài Loan đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự (đi lính hai năm) và nghĩa vụ này không từ khước bất kỳ ai kể cả tu sĩ. Do vậy tăng sĩ Đài Loan phải đi lính và trong hai năm đi lính ấy tăng sĩ phải rời chùa (xem như hoàn tục) nên đã ảnh hưởng đến việc tu tập lẫn nghiên cứu. Trong thời gian tăng sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự thì ni chúng vẫn tiếp tục được đào tạo hoặc tu tập ở các chùa và Phật học viện. Điều này làm cho ni chúng có tâm lý cho rằng mình giỏi hơn, vượt trội hơn chư tăng về mọi mặt.

3)Tông phái độc lập phát triển – vai trò của giáo hội không có.

Các tu sĩ ở Đài Loan đa phần lớn tuổi rồi mới xuất gia (ni giới cũng vậy) cho nên khi chưa xuất gia họ có trình độ thế học và tiếp thu những tư tưởng của xã hội rất sâu (đương nhiên là cả tư tưởng “nam nữ bình quyền”). Lại nữa, khi vào xuất gia vì tổ chức Phật giáo Đài Loan là tổ chức theo tông phái mà không phải là tổ chức theo Giáo hội. Nên các tông phái độc lập phát triển có qui luật riêng, các tu sĩ sau khi thế phát (cạo tóc) họ nhanh chóng được thọ giới tỳ kheo, tỳ kheo ni (thậm chí chỉ cần sau mấy ngày cạo tóc thôi). Những vị này vận dụng tư tưởng thế học vào trong thiền môn rất lớn, và họ cũng cảm thấy rằng họ không cần, không nhất thiết phải tuân thủ “Bát Kỉnh Pháp”nên đã ủng hộ mạnh mẽ phong trào này.

Phật giáo Đài Loan kế thừa truyền thống tông phái của Phật giáo Trung Quốc và phát triển theo xu hướng độc lập, riêng biệt. Trong khi đó vai trò của Giáo hội Phật giáo Đài Loan không phải là tổ chức duy nhất mà chỉ là tổ chức trên danh nghĩa không có thực lực đối với cả cơ cấu tổ chức của bản thân Phật giáo Đài Loan vì mỗi tông phái có qui tắc thanh qui riêng, tổ chức tăng đoàn, giáo dục và hoằng pháp riêng. Trong tổ chức tăng đoàn của mỗi tông phái những chức vụ quan trọng như hoằng pháp, ngoại giao, thư ký, thị giả của các tông chủ đều do ni giới nắm giữ. Thậm chí trong các đại giới đàn của các tông phái có một vài tông phái trực tiếp hay gián tiếp phủ nhận “Bát Kỉnh Pháp”nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển tăng đoàn mà đa phần là ni giới của các tông phái.

Mặt khác, trong quá trình phát triển các tông phái ở Đài Loan, có tông phái do ni giới sáng lập và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành công nhất định trong xã hội. Điều này đã ảnh hưởng đến ni giới và là nguyên nhân thúc đẩy họ đòi quyền bình đẳng với chư tăng về mọi mặt, dần dần họ dùng mọi biện pháp phương cách để vận động xã hội lẫn nội bộ giới Phật giáo chính thức tuyên bố hủy bỏ “Bát Kỉnh Pháp”.

4)Vài nhận định đối với phong trào vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp” của ni giới Đài Loan.

Không phải tất cả giới Phật giáo đều ủng hộ phong trào này nhưng Đài Loan là xã hội tự do và đa nguyên nên mọi tiếng nói đều có được không gian tồn tại nhất định của nó trong xã hội. Hơn nữa, Phật giáo Đài Loan phát triển theo hình thức tông phái, Giáo hội chỉ là tổ chức tượng trưng về danh nghĩa, do vậy sự ủng hộ hay phản đối của một vài tông phái nào đó không có được sự thống nhất hoàn toàn của cả giới Phật giáo Đài Loan.

Việc vận động hủy bỏ “Bát Kỉnh Pháp”của ni giới Phật giáo Đài Loan phần nào đó đã phản ảnh một thực tế trong nội bộ Phật giáo Đài Loan, đó là : thế lực của ni giới Đài Loan đang dần lớn mạnh và nắm thế chủ đạo trong mọi mặt của Phật giáo Đài Loan; Phật giáo Đài Loan phần nào đang bị thế tục hóa bằng những tư tưởng thế học của tăng đoàn (ni giới lẫn chư tăng).

Phong trào này sẽ ảnh hưởng thế nào đến ni giới Việt Nam khi mà hiện tượng ni giới Việt Nam đang du học ở Đài Loan với số lượng không ít, các vị này tương lai có thể là hạt nhân vận động hủy bỏ “Bát Kỉnh Pháp”ở Việt Nam hay không ? Cũng là điều mà Giáo hội và ni bộ cần suy tư ngay từ bây giờ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4269)
Thế kỷ 16, sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh nhiều năm khổ nạn giữa các thủ lãnh, sự xuất hiện của Shabdrung- Ngawang- Namgyal (1594- 1651) đã khiến Bhutan thực hiện công cuộc thống nhất toàn quốc.
10/04/2013(Xem: 12035)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với thơ ca, mỹ thuật và đời sống tâm linh của người Úc.
10/04/2013(Xem: 9618)
Hội Từ Thiện Từ Tế (Tzu Chi) dưới sự lãnh đạo của ni sư Chứng Nghiêm, một nữ tu đầy đức độ và khả kính của Phật giáo Đài Loan, đã mở một chiến dịch nhân đạo cứu trợ nạn nhân sóng thần tsumani ở các quốc gia vùng biển Ấn Độ Dương. Hội Từ Tế luôn luôn có mặt tại khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và hữu hiệu. Hội này đã cứu trợ khắp mọi nơi từ Châu Á (trong đó có Việt nam), Châu Phi, Châu Mỹ (luôn cả bắc Mỹ).
10/04/2013(Xem: 4457)
Từ thập niên 80 trở lại, Đông phương với trào lưu cải cách mở cửa đã phổ cập khắp các đại lục, khắp nơi đã diễn ra một cách sôi nổi hùng hồn. Cùng với sự nhảy vọt của nền kinh tế, trăm hoa đua nở của văn hóa và sự chuyển hình của xã hội, nhiều bậc đống lương thạch trụ quốc gia mang trong lòng nỗi âu lo và trách nhiệm cao độ, khiến họ có ý thức sâu sắc trong việc tự giác tiến hành, cải cách chấn hưng một nền văn hóa.
10/04/2013(Xem: 4396)
Vào ngày 27-6-2003, Tổ chức Văn Hoá, Xã Hội và Giáo Dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) chính thức liệt Bồ-đề Đạo Tràng vào danh sách Di Tích Văn Hoá Thế Giới (World Heritage Site), đứng hàng thứ 23 trong tổng số các công trình văn hoá tôn giáo ở Ấn-độ. Sự kiện trọng đại này đã làm nức lòng tăng ni và Phật tử trên khắp năm châu bốn biển.
10/04/2013(Xem: 12108)
Vào những năm cuối đời Ðông hán, sau khi Phật giáo truyền vào TQ, trải qua những năm chiến loạn của các triều đại như Tam quốc, Tây Tấn 16 nước và Nam Bắc triều, trong chiến tranh và khổ nạn như thế, Phật giáo đã truyền bá 1 cách nhanh chóng. Các lịch đại vương triều, từ việc giữ gìn, bảo vệ chiếc ngai vàng của mình lâu dài vững mạnh, đã biết áp dụng, lưïa chọn chính sách bảo vệ và đề xướng giáo lý Phật giáo. Do vậy, chùa chiền và số lượng tăng chúng không ngừng tăng thêm.
10/04/2013(Xem: 4987)
“This is a fight between Dhamma and A-dhamma (between justice and injustice)” -­ A member of the Alliance of All Burmese Buddhist Monks. “Đây là cuộc tranh chấp giữa chánh pháp và tà thuyết (giữa công lý và bất công)”. Lời của một Thành viên trong Liên Đoàn Phật Tăng Toàn Miến.
10/04/2013(Xem: 4857)
Ngày 27/06/2002, Unesco đã chính thức ghi nhận Tháp Đại Giác là di sản của nhân loại. Có thể nói đây là một tín hiệu đầy hoan hỷ cho cộng đồng Phật giáo trên thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Từ nay, tất cả những người con Phật không còn lo lắng trước những “bạo lực” và “cuồng tín” của các tôn giáo cực đoan đã và đang tìm cách ngăn chặn sự phát triển và hủy diệt các Thánh địa Phật giáo.
10/04/2013(Xem: 4851)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
10/04/2013(Xem: 5045)
Từ ngày 18-27/05/2002, nhà lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, sẽ viếng thăm các tiểu bang Canberra, NSW và Victoria. Ðây là chuyến viếng thăm Úc lần thứ 4 kể từ năm 1996 của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, chuyến viếng thăm của Ngài sẽ bắt đầu từ ngày 18, và kết thúc vào ngày 27 tháng 05 năm 2002. Các sự kiện chính sẽ được diễn ra tại bốn thành phố: Melbourne, Geelong, Canberra và Sydney.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567