Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vị Ni sư làm hình mẫu cho việc trao quyền phụ nữ

23/07/201409:23(Xem: 7093)
Vị Ni sư làm hình mẫu cho việc trao quyền phụ nữ
Ani Choying
Bằng việc cho phép phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, Đức Phật 2.500 năm trước đã đặt phụ nữ bình đẳng với nam giới ở Ấn Độ.
Nhưng ngày nay ở hầu hết các quốc gia Phật giáo châu Á nữ tu đang chiến đấu một trận chiến khó khăn để được công nhận là người truyền bá Giáo pháp. Một người phụ nữ Nepal có thể đã vô tình thay đổi nhận thức này bằng cách hát về Giáo pháp.
"Tôi không bao giờ đặt tên mình vào bất cứ điều gì. Tôi chỉ làm những gì trái tim tôi muốn làm, với tất cả sự hiểu biết và tôn trọng đối với Phật pháp và các nguyên tắc của mình", Ni sư người Nepal, Ani Choying Drolma nói.

Ni sư Ani Choying Drolma, người đã làm nên tên tuổi cho mình trong làng âm nhạc thế giới, đã và đang biểu diễn trong những năm gần đây ở các nước như Mỹ, Úc, Đài Loan và Singapore. Trong quá trình này, Ni sư đã kiếm được rất nhiều tiền và đầu tư vào một quỹ mà cô đã thành lập ở Nepal để giáo dục phụ nữ nghèo và trao quyền cho họ trong một xã hội bảo thủ - nam giới thống trị.

Sinh ra trong một gia đình tị nạn Tây Tạng tại Kathmandu (Nepal) năm 1970, cô đã trở thành nữ tu ở tuổi 13, về cơ bản là để thoát khỏi người cha ngược đãi. Cô Ani Choying đã đi một chặng đường dài từ đó và ngày hôm nay đã trở thành một hình mẫu cho quyền của phụ nữ ở Nepal cũng như trên toàn châu Á. Là một người nói tiếng Anh thông thạo, cô thường xuyên phát biểu tại các hội nghị quốc tế trên toàn thế giới.

Ani-Choying-Dolma
"Chúng ta được hình thành trong bụng mẹ theo cùng một cách (như nam giới) với sự tôn trọng ngang nhau, sự vui mừng như nhau và được nuôi dưỡng trong một cách tương tự cho đến khi chúng ta có mặt trên thế giới", Ani Choying lưu ý, và chính sau đó vai trò khác nhau được gán cho nam và nữ, đó là một nền văn hóa nhân tạo, cô lập luận. "Tôi tin rằng đó là sự hiểu biết sai lầm, tự nhiên không bao giờ có thành kiến".

"Tôi tin vào bản thân mình khi nói rằng tôi có hạt giống để đạt được giác ngộ. Tôi có tiềm năng ngang bằng để phục vụ con người. Tại sao lại sai khi chúng ta tin vào điều đó?", cô Ani Choying đặt vấn đề. "Tôi không tin vào người phê phán mà nhìn vào bên trong và nói, vâng tôi có tiềm năng và tôi phải tăng cường điều đó và tiến về phía trước".

Khi được hỏi điều gì thúc đẩy cô hát không chỉ ở Nepal mà còn trên thế giới, câu trả lời của cô là: "Những gì tôi hát không phải là những bản tình ca bi lụy hoặc bất kỳ bài hát thế gian nào. Tôi hát những bài hát tâm linh, những bài hát thiền và những lời của Đức Phật được chuyển dịch sang ngôn ngữ thơ rất đơn giản - được chuyển thành những bài hát du dương. Mục đích chính của tôi là ca hát cho tôi để có thể chuyển tải trí tuệ của Đức Phật thông qua lời Ngài dạy với sự đơn giản mà bất kỳ người đi trên đường có thể hiểu được ý nghĩa. Vì vậy, người nghe ít nhất cũng được tận hưởng những giây phút an lạc".

Ani Choying2
Một ca sĩ tài năng không cần đào tạo
Sự nghiệp âm nhạc của cô bắt đầu vào năm 1994, khi tay ghi-ta người Mỹ Steve Tibbetts trong chuyến thăm Nepal đã gặp cô Ani Choying và nghe cô tụng kinh. Ông đã ngay lập tức bị ấn tượng bởi tài năng ca hát của cô và cuối cùng đã cố gắng ghi âm lại trên một máy ghi băng trong một điện thờ nhỏ. Kết quả là album hợp tác Cho, được phát hành vào năm 1997 nhận được nhiều khen ngợi.

"Tôi không bao giờ được đào tạo kỹ thuật để trở thành một ca sĩ và không bao giờ theo đuổi để trở thành một ca sĩ. Khi bạn theo đuổi sự nghiệp trở thành một ca sĩ, tham vọng chính của bạn là muốn trở nên nổi tiếng hoặc muốn kiếm được nhiều tiền. Nhưng nó chưa bao giờ đúng trong trường hợp của tôi", Ni sư Ani Choying nói khi nhớ lại sự khởi đầu của cuộc hành trình âm nhạc của mình.

"Những gì xảy ra là ông nhạc sĩ này đã đến tu viện và nghe tôi hát một số những lời cầu nguyện. Ông yêu cầu tôi ghi lại một cái gì đó. Sau đó, ông lấy nó trở lại Mỹ và trộn với thứ âm nhạc của ông và gửi nó trở lại với một đề nghị liệu tôi có quan tâm đến việc phát hành một album từ nó".

Cô ban đầu không thể quyết định liệu có nên làm điều đó hay không. "Tôi đã đi gặp thầy của tôi (và hỏi) thầy nghĩ gì về điều đó. Câu trả lời của thầy là được. Bất cứ ai nghe thấy những câu chú hoặc bài hát thiêng liêng, dù là tín đồ Phật giáo hay không tôn giáo, tất cả họ sẽ được hưởng lợi, không sao đâu. Việc tôi ghi âm lại cũng tốt", cô nói thêm. Quyết định này đã đưa cô vào những chân trời mới và có lẽ đã mở ra con đường mới cho các Ni cô Phật giáo châu Á để tự nhận mình là sứ giả của Giáo pháp.

Từ năm 1997 đến 2011, Ni sư Ani Choying đã phát hành 12 đĩa CD và góp phần biên soạn âm nhạc. Sau thành công của chuyến lưu diễn đầu tiên tại Mỹ, cô bắt đầu biểu diễn trong các buổi hòa nhạc và lễ hội ở khắp châu Âu, Bắc Mỹ, Anh, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan và nhiều quốc gia khác của châu Á. Cô đã thực hiện một phần quan trọng trong việc phổ biến tán tụng Phật giáo Tây Tạng với khán giả phương Tây.

Vào năm 2013, Ni sư Ani Choying đã hát một bài hát liên tôn giáo với ca sĩ Jordan Farah Siraj cho MTV được sáng tác bởi nhạc sĩ từng đoạt giải Oscar người Ấn Độ A.R. Rahman với bài thánh ca Phật giáo Nepal cơ sở của việc hình thành bài hát, theo giai điệu truyền thống của Jordan. Với số tiền đến với cô từ sự nghiệp âm nhạc thăng hoa, Ni sư Ani Choying đã có thể bắt đầu hỗ trợ giáo dục trẻ em gái và phụ nữ trẻ ở Nepal từ các khu vực nghèo.

Công việc thiện nguyện lan tỏa
Năm 1998, cô thành lập Hội Bảo trợ Ni (NWF) của Nepal. Bằng cách cung cấp giáo dục cả thế tục và Phật giáo cho các nữ tu, họ đến lượt sẽ có thể phục vụ cộng đồng rộng lớn hơn. Dự án hàng đầu của NWF là Trường Tara Arya, mở cửa vào năm 2000. Cô cũng hỗ trợ một số dự án nhân đạo như Shree Tara Band (ban nhạc cụ phụ nữ đầu tiên của Nepal), xây dựng một bệnh viện thận cho Nepal, một trung tâm phát triển trẻ thơ ban đầu và một trại chăm sóc chó đường phố.

Cô Ani Choying không thấy sự xung đột giữa các nguyên tắc giới luật của mình khi là một nữ tu và được trả tiền cho các buổi biểu diễn âm nhạc của cô. "Theo truyền thống của châu Á bạn được cho là tặng và trong truyền thống phương Tây, bạn được trả tiền. Thời gian của bạn, kỹ năng của bạn được tôn trọng theo cách đó", Ni sư Ani Choying lưu ý khi vấn đề giới luật được đưa ra trong cuộc phỏng vấn. "Vì vậy, khi tiền đến, câu hỏi đặt ra là tôi nên làm gì với số tiền đó? Có thể bây giờ tôi đã mãn nguyện ước muốn của mình khi thấy tất cả phụ nữ và trẻ em gái có được cơ hội được đi học và nhận được một nền giáo dục".

Do đó, cô nói thêm rằng cô đã bắt đầu xây dựng một trường học cho các nữ tu, nơi họ có thể nhận được một nền giáo dục tốt. "Số tiền này đã giúp tôi bắt đầu dự án này và vì nó không đủ, nó chỉ để bắt đầu, nên nó cần tiếp tục, có nghĩa là cần nhiều tiền hơn nữa. Vì vậy, việc ca hát của tôi cần tiếp tục". "Nó bổ sung thêm ý nghĩa tốt đẹp cho sự tồn tại của tôi", Ni sư Ani Choying lập luận. "Tôi cảm thấy tích cực. Cảm thấy như tôi may mắn, ít nhất tôi có thể làm giảm đau khổ trong cuộc sống của một ai đó".

Văn Công Hưng (Theo IDN)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/11/2013(Xem: 50499)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
26/10/2013(Xem: 63460)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
09/10/2013(Xem: 12328)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.
18/09/2013(Xem: 4730)
Trong lá thư tháng 9 năm 2013 (http://www.bouddhismes.net/node/1659)của Viện Nghiên Cứu Phật Học Pháp gửi cho các thành viên có giới thiệu một bài báo nói về Phật Giáo Trung Quốc đã đăng trên trang web Fait-religieux.com(http://www.fait-religieux.com/monde/asie_pacifique/2013/06/16). Xin chuyển ngữ dưới đây. Một sự đổi mới thật ngoạn mục thế nhưng cần phải hiểu với sự thận trọng
05/06/2013(Xem: 25681)
Kỷ Yếu Kính Mừng Chu Niên Hai Mươi Năm (1990-2010) Thành Lập Tu Viện Quảng Đức
25/05/2013(Xem: 10332)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
23/04/2013(Xem: 8468)
Quyển Thiền Lâm Tế Nhật Bản quý vị đang cầm trên tay bằng tiếng Việt đây, chúng tôi dịch trực tiếp từ tiếng Nhật sang tiếng Việt, tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi, nhân kỳ nhập thất lần thứ ba tại đây. Công việc được bắt đầu từ ngày 24 tháng 10 năm 2005, đến ngày 18 tháng 11 năm 2005 bản dịch hoàn tất.
10/04/2013(Xem: 4332)
Hiện nay có hai bảng Niên biểu Phật giáo khá phổ biến và cả hai đều căn cứ vào một mốc thời gian duy nhất tương đối chính xác là năm đăng quang của hoàng đế A-dục, tức là năm - 268 hay - 267 trước Tây lịch. Các học giả Tây phương đặt tên cho hai bảng Niên biểu này là : "Bảng Niên biểu dài" và "Bảng Niên biểu ngắn". Theo bảng "Niên biểu dài" thì Đức Phật tịch diệt 218 năm trước khi hoàng đế A-dục chính thức lên ngôi, vì vậy nếu suy ngược lên bằng cách dựa vào mốc thời gian làm chuẩn là năm - 268, thì Đức Phật nhập vào Đại bát Niết bàn vào năm - 486
10/04/2013(Xem: 5164)
Số lượng Phật tử trên thế giới đã từng bị lượng định quá thấp. Những thống kê mà ta đọc được trong các Từ điển Bách khoa hoặc trong các Bảng Niên giám thường ghi con số nầy vào khoảng 500 triệu người. Con số nầy đã không kể đến hơn một tỉ người Trung Quốc hiện đang sống tại nước Cọng hòa Nhân dân Trung Quốc.
10/04/2013(Xem: 12862)
Hôm nay là ngày 20 tháng 6 năm 2001 nhằm ngày 29 tháng 4 nhuần năm Tân Tỵ, tôi chắp bút bắt đầu viết quyển sách thứ 32 nầy trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm nay. Hôm nay cũng là ngày rất đẹp trời. Vì mấy tháng nay, mặc dầu đã vào hạ; nhưng bầu trời vẫn vần vũ bóng mây, như dọa nạt thế nhân là ánh sáng của thái dương sẽ không bao giờ chan hòa đến quả địa cầu nầy nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]