Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Thổ ngữ và y phục

27/11/201311:37(Xem: 19750)
07. Thổ ngữ và y phục

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


7. Thổ ngữ và y phục




Ở Amdo có vô số thổ ngữ. Vì là người quận Tsongkha, chúng tôi nói tiếng Tsongkha, nhưng cha mẹ tôi cũng biết nói tiếng Amdo. Hai ngôn ngữ này khác nhau rất nhiều. Ở quận Tsongkha, vì có nhiều người Hoa nên thế hệ trẻ nói tiếng Hoa và thường quên tiếng Amdo. Ở Guyahu, người già nói tiếng Amdo, người trẻ nói tiếng Hoa. Không có phần trùng nhau giữa tiếng Hoa và tiếng Amdo của chúng tôi. Chúng tôi có thể hiểu vài tiếng Hoa nhưng ngôn ngữ của họ giống như một người nói tiếng Tây Tạng không đúng.

Sau khi người Hồi Giáo rời khỏi xứ này, phần lớn cư dân là người Amdo và người Hoa, với một số người bộ tộc, những người du mục nuôi trâu yak, làm phô mai và bơ. Tôi vẫn nhớ những sự khác biệt giữa các chủng tộc chúng tôi, đặc biệt là sự khác nhau trong kiểu y phục. Người Amdo chúng tôi đội "hari" truyền thống có hình dạng giống như một cái bình, gắn những món trang sức, và dài xuống tới bụng. Người Hoa đội khăn len "baochidue", che phía sau đầu của họ. Họ cột tóc theo kiểu "dzachiba", một búi tóc nhọn ở gáy, trang điểm lông ngựa, thêm những món trang sức bằng vàng và bạc, tùy theo điều kiện giàu nghèo và giai cấp xã hội. Họ cũng đội "jalung" và "tungduntze", tương tự "hari", được làm bằng vải và được gài vào bím tóc.

Tôi nghe nhiều người cho rằng Amdo vay mượn nhiều tập quán của người Trung Hoa, đặc biệt kiểu y phục, nhưng tôi nghĩ điều này không đúng. Người Hoa mặc áo dài có nút áo và thắt lưng, còn phụ nữ Amdo mặc áo Tây Tạng truyền thống "chuba", kiểu áo tôi mặc ngày nay tại Ấn Độ. Vào mùa Đông, áo của chúng tôi có lót lông thú và được đệm bông dầy. Gấu áo có viền nhiều màu trắng, đỏ, vàng, xanh và bên dưới là một đường viền bằng da con hải ly. Ở quê hương chúng tôi, phụ nữ không mặc tấm che đằng trước, hay "pangden" như phụ nữ ở thủ đô Lhasa vẫn mặc.

y phuc tay tang

Đồ trang sức là thứ thiết yếu của đàn bà. Chúng tôi đeo nhẫn ở cả mười ngón tay, xỏ hai lỗ ở mỗi tai, một trên một dưới. Lỗ dưới đeo một bông tai dài hơn một tấc, lỗ trên đeo bông tai nhỏ. Nhưng món trang sức quan trọng nhất là nón "hari". Sau khi lấy chồng, tôi thường đội nón "lenpai hari", kiểu nón được gắn đủ đồ trang sức khác nhau, và một cái đai "tangyo" gắn vào nón "hari". Thêm vào đó chúng tôi đeo "jalong", hai miếng vải, thường được dùng để cột tóc, dài từ bụng tới đất và được trang trí với bạc, lục ngọc và san hô. Chúng tôi cũng mặc "rawang", một loại áo khoác với hai mảnh ở hai bên và một mảnh rộng ở giữa. Tất cả những loại trang phục này chỉ dành cho phụ nữ đã lập gia đình.

Khi thức dậy vào buổi sáng, chúng tôi đội ngay nón "hari", nếu không chúng tôi không được vào gian nhà thờ để tụng kinh cầu nguyện. Đàn bà không được bỏ nón "hari" xuống trước sự hiện diện của một vị trưởng thượng, kể cả cha mẹ chồng. Đàn bà không được đội mũ, nón trước mặt người nhà chồng, dù chỉ là một cái khăn tay ở trên đầu cho dù trời nắng bao nhiêu, vì như vậy là vô lễ. Ngay cả khi làm việc ở ngoài đồng, đàn bà cũng không được đội mũ nón. Những cô gái đang ở ngoài đồng khi không có mặt người trên có thể đội khăn tay trên đầu. Đây là loại khăn vải dầy, gấp làm bốn, và những bím tóc được cột xung quanh nó.

Đàn ông và đàn bà đều thắt bím tóc dài. Khi làm việc họ vấn bím tóc quanh đầu, nhưng khi có một vị trưởng thượng đến, họ thả bím tóc xuống lưng để tỏ lòng tôn kính.

Tóc của đàn bà được kết thành bảy mươi bím nhỏ. Sau khi gội đầu, chúng tôi mất cả ngày để kết tóc và trang điểm bộ tóc. Ở hai bên đầu chúng tôi kết khoảng năm mươi bím nhỏ, ở phía sau đầu chúng tôi kết hai mươi bím lớn. Chúng tôi gội đầu mỗi tuần, và những bím tóc được kết cho tới lần gội đầu sau. Nếu chúng tôi bận làm nhiều việc thì những bím tóc sẽ được giữ trong một tháng.

Kiểu giày ống của chúng tôi khác kiểu giày "somba" của những phụ nữ Tây Tạng khác. Giày ống của chúng tôi gọi là "yohai" được trang trí cầu kỳ và buộc cao tới đầu gối. Chúng tôi tự tay làm đế giày bằng sợi gai bọc vải, dày khoảng năm phân. Phần trên của giày có thể làm bằng nhung, lụa hay một loại vật liệu khác, và được trang trí bằng những đường thêu. Là nông dân, chúng tôi đi chân không trong mùa hè, nếu lúc đó chúng tôi đi giày thì sẽ bị các vị trưởng thượng trong làng gọi là "bà nội".

Khi còn trẻ, y phục của tôi cũng giống như của người lớn tuổi, trừ cái "hari". Con gái nhỏ kết năm bím tóc, với hai bím nhỏ ở hai bên và ba bím ở phía sau. Thắt lưng của chúng tôi được thắt cao một chút ở phía trên eo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2021(Xem: 3687)
Đàn áp Stalin tại Mông Cổ (Их Хэлмэгдүүлэлт) đề cập đến một thời kỳ bạo lực và khủng bố chính trị ở Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ từ năm 1937 đến năm 1939. Stalin là vị chúa tể độc tài đã từng cai trị Liên bang Xô Viết bằng bàn tay sắt trong suốt 30 năm trời (1922-1953). Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, là Đại nguyên soái, Tổng tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô.
04/09/2021(Xem: 5061)
Những cuộc chiến tranh của Alexandros Đại đế là một loạt các cuộc chinh phục vũ lực của vua Macedonia Alexandros III ("Đại Đế"), đầu tiên chạm trán với nước Ba Tư hùng mạnh của vua Darius III, và sau đó chống nhau với các vị thủ lĩnh địa phương và các lãnh chúa xa tới tận phía Đông miền Punjab, Ấn Độ.
04/09/2021(Xem: 3067)
Khi các thành phố lớn của Afghanistan sụp đổ, hiện lực lượng nổi dậy của Taliban đã giám sát hàng chục nghìn hiện vật Phật giáo và di chỉ cổ.
04/09/2021(Xem: 2898)
Quan niệm về sự bình đẳng "Thượng đế tạo ra mọi người, đều là người tự do, không ai bị biến thành nô lệ cả", một nhóm thanh niên Phật tử từ một số cơ sở tự viện Phật giáo Indonesia, đã cùng nhau tham gia để hành động điều gì đó mang tính tích cực trong việc làm "tốt Đạo-đẹp Đời". Những thanh niên Phật tử này đến từ làng Tanjung, quận Pakis Aji, quận Jepaara.
04/09/2021(Xem: 3283)
Ở cấp độ thể chế hóa phương hướng thống nhất Phật giáo, Thiền sư Ashin Jinarakkhita, cha đẻ và truyền cảm hứng cho sự phục hưng Phật giáo Indonesia sau thời Độc lập Tổ quốc Indonesia, Ngài đã thành lập tổ chức Phật giáo tại gia cư sĩ và một cộng đồng Tăng già Phật giáo Indonesia.
02/09/2021(Xem: 3404)
Hàn Quốc Phật giáo đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài lịch sử hơn 1700 năm, trãi bao thăng trầm cùng sự thịnh suy của đất nước. Văn hóa Phật giáo đã tác động đến đời sống của người dân Hàn Quốc từ ngìn đời trong đó có văn hóa ẩm thực chay.
31/08/2021(Xem: 4491)
Trang thiết bị giáo dục trong học đường sẽ giúp ích cho việc giáo dục và cuộc sống của sinh viên Trường Nông nghiệp Công nghệ cao tại Tanzania, và đã đến tận nơi nhận quà khoảng 80 ngày, sau khi container hàng hóa rời khỏi Tổ đình Trung ương Thiền phái Tào Khê, Thủ đô Seoul vào tháng 6 vừa qua.
30/08/2021(Xem: 3636)
Trong cuộc khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những pho tượng Phật và Tượng Bồ tát Tara (Laksmindra-Lokesvara) và nhiều pho tượng Phật lớn khác. Các nhà khảo cổ học thuộc Viện khảo cổ học Ấn Độ (ASI) đã phát hiện ra phế tích của một Tu viện Phật giáo được kiến tạo vào khoảng thế kỷ thứ 10 sau Tây lịch.
28/08/2021(Xem: 4543)
Tác phẩm "Crossing the Threshold of Hope" (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng) của Giáo Hoàng John Paul II ấn hành năm 1994. Nguyên tác bằng tiếng Ý, tới bây giờ đã dịch sang 53 ngôn ngữ. Trong sách, Giáo Hoàng có một số nhận định sai lầm về Phật Giáo.
27/08/2021(Xem: 3316)
Sáng ngày 25 tháng 8 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chia sẻ pháp thoại về "Văn hóa Tây Tạng và Tiềm năng đóng góp cho Hòa bình, Tibetan Culture and its Potential to Contribute to Peace", tiếp theo là phần vấn đáp trực tuyến tại Tịnh thất của Ngài Dharamsala, HD, Ấn Độ, được tổ chức bởi nữ cư sĩ Tenzyn Zöchbauer, Giám đốc Điều hành Tổ chức Sáng kiến Tây Tạng Deutschland (TID) - Nhóm Hỗ trợ Tây Tạng lớn nhất tại Đức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]