Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Đời sống ở nông thôn

27/11/201311:34(Xem: 19719)
04. Đời sống ở nông thôn

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


4. Đời sống ở nông thôn







Nông trại của chúng tôi là một vùng đất đẹp đẽ, với nhiều cây cối, hồ nước, đồi và núi. Đất ở đây rất mầu mỡ và trồng giống cây nào cũng tốt. Chúng tôi làm phân bón bằng cách cắt cỏ rồi trộn với đất thật kỹ, đem phơi trong vài ngày, sau đó đốt cho tới khi có màu hơi đỏ rồi nghiền nát trộn với phân bò và phân dê. Khi đã khô, thứ phân bón này cũng được dùng làm nhiên liệu sưởi trong cái "kang".

"Kang" là một cái bệ xây bằng gạch, ở bên trong rỗng, lớn bằng cả căn phòng. Tất cả nhà chúng tôi ngủ ở trên đó và cũng ngồi ăn trên đó. Chúng tôi nhồi cỏ khô, hay cát và phân khô hay củi, rồi đốt lửa. Trên mặt cái bệ, chúng tôi trải một tấm thảm, rồi ở trên đó là một tấm trải giường. Chúng tôi cho thêm củi và phân khô vào lửa trong lò sưởi "kang" để giữ cho nó cháy suốt ngày. Trời lạnh tới mức dù có cái bệ được đốt nóng, chúng tôi vẫn phải mặc áo lông thú dầy. Nếu không có lò sưởi này, thì có lẽ chúng tôi sẽ chết cóng hết vì lạnh.

Vào mùa hè, thời tiết rất ấm và dễ chịu, với nhiệt độ ở giữa tám mươi và chín mươi độ F (khoảng 28 độ hay 29 độ bách phân). Mùa Đông, từ tháng mười trở đi, trời rất lạnh, đến nỗi chúng tôi để nước trà trong chén qua đêm, sáng hôm sau nước trà sẽ đông cứng, và chén sẽ nứt; Chúng tôi cũng có thể nghe thấy tiếng chân bước ở khoảng cách khá xa khi bàn chân người ta chạm xuống băng tuyết. Có nhiều khi tuyết rơi dày ba thước, cao gần tới tầng thứ nhì của căn nhà. Sau một cơn mưa tuyết, chúng tôi phải mất hai ngày để dọn tuyết.

Vì không có gì trồng được trong mùa Đông nên chúng tôi phải trữ khoai tây, củ cải và những thứ rau khác ở tầng hầm. Chúng tôi xây một cái hầm sâu khoảng ba thước và rộng sáu thước, có cầu thang dẫn xuống hầm, nơi chứa những lương thực cần yếu. Nắp hầm được đóng kín, nếu không mọi thứ sẽ bị đóng băng.

Nông trại này lớn, vì vậy chúng tôi không thể làm tất cả công việc. Chúng tôi phải thuê nhân công bên ngoài. Những nhân công này có thể được chia làm hai nhóm. "Nyaboy", là người được thuê để làm theo tháng, và "yuleg" là người được thuê làm theo năm. Từ tháng hai đến tháng tư hay tháng năm, có nhiều công việc ở nông trại. Trong tháng tư người ta cắt cỏ để làm thực phẩm cho gia súc trong mùa đông. Tháng bảy chúng tôi trồng đậu nên thuê nhiều người làm công cho đến tháng mười hay tháng mười một, sau đó những người làm thuê theo năm trồng lúa mạch. Chúng tôi trồng lúa mì, lúa mạch, đậu và mù tạt... những gì có thể trồng được. Chúng tôi thu hoạch nhiều lương thực dùng cho gia đình, và bán đi những thực phẩm thặng dư.

Cha tôi thường ăn sáng rồi hái rau trong vườn và phân phối cho các nhà hàng xóm bằng cách liệng rau qua hàng rào quanh khu vườn, đặc biệt là cho những nhà nào không có vườn trồng rau. Hàng xóm rất thân mật với nhau. Trong những lúc rảnh rỗi, chúng tôi hay lên sân thượng trò chuyện với những người hàng xóm. Cha tôi thường mời những người trong gia tộc và bạn bè đến nhà ăn uống trong mấy ngày liền. Ông rất thích uống rượu.

Sau năm mươi hai tuổi, cha tôi không làm việc nữa, chỉ thỉnh thoảng đi một vòng quan sát và để cho anh tôi trông coi nông trại. Mẹ tôi lo mọi việc trong nhà. Ở tuổi bảy mươi, Bà vẫn hoạt động và thêu thùa. Mắt của bà rất sáng tốt.

Chúng tôi không có đồng hồ để coi giờ, chỉ nhìn mặt trời để ước lượng thời gian. Chúng tôi cắm một cái que trên đất, nếu bóng đen thu lại ngắn nhất thì chúng tôi biết đó là lúc giữa trưa; nếu bóng nghiêng dài hơn thì đó là xế chiều. Lúc mặt trời lặn, cái bóng sẽ biến mất. Ban đêm chúng tôi nhìn những ngôi sao trên bầu trời để tính giờ giấc.

Lúc còn nhỏ tôi có nhiều bạn, đa số là con nhà hàng xóm. Đồ chơi cho trẻ em không có, vì vậy bọn con gái cùng nhau chơi những trò "nữ công gia chánh". Chúng tôi may quần áo tí hon bằng vải vụn và kiếm những mảnh giấy để vẽ tất cả những gì trông thấy, như hoa lá và những căn nhà. Tôi cũng thích xây những tòa lâu đài bằng cát.

Năm tôi lên mười hai hay mười ba tuổi, cha tôi chỉ cho tôi chỗ ông cất giấu tiền. Sau khi những tá điền và các anh em trai của tôi đã ra đồng ruộng, cha tôi dẫn tôi tới chuồng gia súc, chỗ ông đã chôn giấu món tiền đựng trong những cái hũ lớn. Tôi giúp ông đào đất lên, cho thêm tiền vào mấy cái hũ, rồi lấp đất lại. Tôi thích điều bí mật này.

lua mach tay tang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 7645)
ÚC ĐẠI LỢI: Trung tâm Phật học Nam Thiên được xây lên từ khu đất hoang Wollongong, New South Wales – Tại một khu đất hoang được mua từ hội đồng địa phương với giá một đô la, một tòa nhà lấy cảm hứng từ hoa sen đã được xây dựng nên và một ngày nào đó nó có thể là hiện thân của trường đại học Phật giáo đầu tiên của Úc Đại Lợi. “Nó rất có tính biểu tượng – tòa nhà hoa sen vươn khỏi khu đất hoang này”, nhà toán học John Loxton, viện trưởng sáng lập viện Nam Thiên nói. Tọa lạc ở nam Wollongong, tòa nhà trong khuôn viên khu đại học vươn lên không gian với những phần bê tông uốn cong với kiểu dáng đẹp. Bên ngoài, các tấm chắn và ngói màu đất sét của tòa nhà hài hòa với ngôi chùa Nam Thiên có mái đất nung truyền thống nằm liền kề. Giáo sư Loxton nói rằng tất cả đã bắt đầu với các dịch vụ sau đại học về nghiên cứu Phật giáo ứng dụng, và học viện có kế hoạch xây dựng thêm nhiều khóa học hơn để đáp ứng về kinh doanh và cuộc sống chuyên nghiệp. (The Australian – October 15, 2014)
19/10/2014(Xem: 33856)
Cuốn PHẬT GIÁO KHẮP THẾ GIỚI, do Tỷ khưu Nguyên Tạng viết, là một đề tài hấp dẫn mà đáng lẽ phải có từ lâu. Ðối với người con Phật ở Việt Nam / châu Á thì sự kiện nổi bật nhất ở nửa cuối thế kỷ XX không hẳn là cuộc cách mạng Tin học, mà là sự phát triển ngoạn mục của Phật giáo tại Tây AÂu và Bắc Mỹ. Thực ra, cuộc cách mạng giác ngộ nhân chủ khởi nguyên từ hậu bán thế kỷ XVIII là do sự thức tỉnh của giới trí thức phương Tây sớm biết tìm đến với Ðạo Phật, và đã lái lịch sử thế giới đi vào con đường giải thoát thân phận con người khỏi khổ đau, mê tối, và giải phóng các dân tộc nhược tiểu thoát cảnh thù địch, lạc hậu – Phải chờ hơn hai thế kỷ.
16/10/2014(Xem: 10422)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
02/09/2014(Xem: 10245)
Các tổ chức cá nhân trên thế giới đã tập hợp để bày tỏ lo ngại ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, bởi mối đe dọa gần đây của nhà nước Hồi giáo (IS). Ngôi Borobudur (Bà La Tự viện quần-婆羅浮屠寺院群) Đại Già lam lớn nhất thế giới, là một ngôi Chùa Tháp Phật giáo quy mô, miền Trung đảo Java, Indonesia.
17/08/2014(Xem: 25246)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 8536)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
23/07/2014(Xem: 7091)
Bằng việc cho phép phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, Đức Phật 2.500 năm trước đã đặt phụ nữ bình đẳng với nam giới ở Ấn Độ. Nhưng ngày nay ở hầu hết các quốc gia Phật giáo châu Á nữ tu đang chiến đấu một trận chiến khó khăn để được công nhận là người truyền bá Giáo pháp. Một người phụ nữ Nepal có thể đã vô tình thay đổi nhận thức này bằng cách hát về Giáo pháp.
23/07/2014(Xem: 4867)
1500 người tham gia cầu nguyện nạn nhân Malaysia Airlines MH17 Phật Quang Sơn, Trụ trì Tuệ Phong pháp sư (慧峰法師) chính giữa, Tuệ Nghi pháp sư (慧宜法師) bên phải, Tuệ Trạch Pháp sư (慧澤法師) bên trái, ba vị dẫn đoàn 1500 Thiền sinh, Trại sinh Thiền học Quốc tế cùng đến trước Phật đài, thắp nến để cầu nguyện cho các nạn nhân chuyến bay MH17 Malaysia Airlines.
28/05/2014(Xem: 5911)
Đảo Jeju, Hàn Quốc; vịnh Hạ Long, Việt Nam; Thác Iguazu (Bra-xin và Ác-hen-ti-na), Đảo Komodo (Indonesia), Rừng mưa Amazon và Sông Amazon, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa (Philippines) và Núi Bàn (Nam Phi) được bình chọn là "Bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới” vào cuối năm 2011.
26/05/2014(Xem: 10598)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]