Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 2: Bộ phái Phật giáo và Đại Thiên

05/01/201202:25(Xem: 5948)
Tiết 2: Bộ phái Phật giáo và Đại Thiên

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG IV

A DỤC VƯƠNG VÀ ĐẠI THIÊN

TIẾT II. BỘ PHÁI PHẬT GIÁO VÀ ĐẠI THIÊN

- Sao gọi là Bộ Phái?

Danh từ Bộ phái ở đây không như danh từ Tông phái của Trung Quốc vậy. Nguyên nhân là do cố thủ quan điểm luận mà xảy ra bất đồng nên có sự phân lập riêng biệt. Sự phân lập này dẫn đến những tính cách tương đồng, tương dị rất thú vị, ấy là tự nhiên mà hình tành nên đạo nghĩa kết hợp, hoặc đối lập. Từ đấy mà Bộ phái Phật Giáo thành hình. Điều đó diễn ra sau Phật nhập diệt khoảng trăm năm. Thực thì nguyên nhân xa của phân phái cũng đã xảy ra khi đức Phật còn tại thế. Điều đó được chép rõ trong kinh Tạp A Hàm quyển mười sáu. Kinh 447(11) đơn cử mười ba vị đại đệ tử của đức Phật. Nhưng vị này mỗi người đều có nhiều Tỳ kheo thân cận kinh hành. Những Thượng tọa nghe nhiều, thường thân cận ngài A Nhã Kiều Trần Như, những Tỳ kheo tịnh tu khổ hạnh đầu đà thường thân cận ngài Đại Ca Diếp; những vị đại trí biện tài, thường thân cận ngài Xá Lợi Phất; những vị có sức mạnh thần thông, thường thân cận ngài Mục Kiền Liên, những vì có thiên nhãn minh triết, thường thân cận ngài A Na Luật, những vị tinh tấn dũng mãnh, thường thân cận ngài Nhị Thập Ức Nhĩ (Scronakotivimsa), những vị vì đại chúng mà tu sửa cúng cụ, thường thân cận ngài Đa Phiêu, những vị hành trì thông đạt Luật nghi, thường thân cận ngài Phú Lâu Na, những vị đa văn tổng trì, thường thân cận ngài A Nan, những vị giỏi phân biệt các kinh, khéo thuyết giảng pháp tướng, thường thân cận ngài Ca Chiên Diên, những vị mật hạnh nghiêm cẩn hành trì giới luật, thường thân cận ngài La Hầu La, những vị thường tụ tập tăng chúng để nói và làm những điều sai quấy, thường thân cận ngài Đề Bà Đạt Đa. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 46, (Phóng Ngưu Phẩm) kinh thứ ba, phẩm 49(11) cũng nói: “Nên biết căn nguyên của chúng sinh đều là “tự tương loại”, những kẻ ác hành thường theo với nhau; những người thiện hạnh cũng thế”. Chỉ có điều, lúc đức Phật còn tại thế, cửa với nhà chưa bị đứng riêng. Đến lần tập kết thứ nhất, mới bắt đầu thấy cửa là cửa, nhà là nhà; và sau lần Thất Bách kết tập mới lộ rõ việc phần thành hai Bộ. Mãi đến thời vua A Dục, và sau đó Đại Chúng Bộ một lần nữa bị chia cắt. Sự chia cắt lần này về mặt niên đại, thì tư liệu của Nam truyền và Bắc truyền sai khác nhau cả trăm năm. Đại Chúng Bộ tuy bị chia cắt, nhưng lại tương đồng, nhưng thuyết về sự khởi tranh của tặc trú Tỳ kheo là giống nhau, trong đó có liên quan đến sự kiện Đại Thiên.

- Hai vị Đại Thiên.

Đại Thiên tên tiếng Phạn là Ma Ha Đề Bà (Mahàdeva). Sự tích nói về Đại Thiên, xin đọc “Dị Bộ Tông Luận”, “Thập Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, tất cả các bộ nêu trên đều nói đến sự việc sau Phật diệt dộ hai trăm năm, có ngoại đạo tên là Đại Thiên xin xuất gia với Đại Chúng Bộ. Người này sống ở núi Chi Đề (Caityagiri), còn có tên là núi Chế Đa. Trong bộ Ma Ha Tăng Kỳ, ông lại là người kiến lập thêm ba Bộ nữa. Lại nữa, Đại Đường Tây Vực Ký, quyển ba(12) chép: Sau Phật diệt độ khoảng trăm năm, có xuất hiện nhân vật tên Đại Thiên, ông là người khoát đạt đa trí, ngẫm muốn có thực danh, nên suy nghĩ sâu xa và sáng tác luận nghĩa trái nghịch với Thánh giáo, khiến vua Vô Ưu (tức vua A Dục) không rõ đâu là phàm, đâu là thánh, nên đồng tình với luận điểm của Đại Thiên, cho Đại Thiên được thân cận, nương cậy ông; đồng thời vua A Dục lại có ý muốn giết các Thượng tọa thánh tăng. Thánh Tăng là những vị đã đắc quả A la hán nên quí ngài nhận biết ý sát của vua A Dục, bèn vận dụng thần thông đi đến nước Ca Tháp Di La. Cạnh dó luận Đại Tỳ Ba Sa - quyển 99 của Hữu Bộ(13), còn công kích Đại Thiên dữ dội hơn, cho rằng Đại Thiên là người dâm dục với mẹ đẻ, giết A la hán, rồi giết luôn mẹ đẻ; và ông phạm cả ba tội Vô gián. Đồng thời luận này còn chỉ trích Đại Thiên là người gây ra cuộc tranh cãi “Ngũ Sự” đầy vọng ngôn.

Tất cả các việc nêu trên đều xuất phát từ truyền thuyết của Thượng Tọa Bộ; sự thực không hẳn như vậy, bởi hai người cùng có tên Đại Thiên cách xa nhau cả trăm năm. Tiếc là về sử liệu, Đại Chúng Bộ không còn lưu lại điều gì để có thể dựa vào tham khảo. Quả như các việc trên là thực, thì người có tên là Đại Thiên đã phạm ba ba tội Vô gián, và đời sau gọi ông là Đại Thiên ngoại đạo xin xuất gia với Đại Chúng Bộ. Nhưng cả Hữu Bộ và Đại Chúng Bộ lại đứng trên lập trường lưỡng cước khi nói về Đại Thiên. Do đó, đối với việc Đại Thiên phạm ba tội Vô gián chỉ là vu khống. Trên thực tế, thời đại đương thời Đại Thiên là người đi trước về tư tưởng tiến bộ. Tuy ông bị các vị Kỳ túc Thượng tọa công kích, nhưng ông được đa số đại chúng ủng hộ. Lúc con vua A Dục là Ma Sẩn Đà xuất gia, ông này thỉnh ngài Đế Tu của hệ Phân Biệt Thuyết làm Hòa thượng, mời ngài Mạt Lan Đề của Hữu Bộ làm cụ túc giới A Xà Lê, và ngài Đại Thiên của Đại Chúng Bộ làm thập giới A Xà Lê(14). Như thế đủ thấy vua A Dục không thiên vị bên nào, và Đại Thiên cũng không phạm ba tội Vô Gián như truyền thuyết của Hữu Bộ. Lại càng không đúng với truyền thuyết nói rằng: Vào thời vua A Dục, Phật pháp long thịnh và tứ sự cúng dường rất nồng hậu. Do đó, đa số ngoại đạo vì miếng ăn cái mặc mà xin xuất gia theo Phật Giáo, nên gọi số này là “tặc tu”. Đồng thời họ cũng khởi sự phân tranh khiến vua A Dục phải triệu tập chúng lại để kiểm nghiệm. Trong số đó có ba trăm người thuộc loại ngoại đạo thông minh. Họ thông đạt cả Tam tạng thánh điển, nên không còn cách nào khác, vua A Dục đành cho họ ở riêng một trú xứ, trong số này có một vị tên là Đại Thiên, sống ở núi Chế Đa. Ông này lại cùng với Đại Chúng Bộ nghị luận Ngũ Sự. Nhân đây Đại Chúng Bộ bị chia thành ba Bộ.

Tất cả chỉ là truyền thuyết nên rất khó phân biệt được chân, ngụy. Nhưng ngày nay chúng ta có thể xác tín rằng; Đại Thiên không phải là tặc trú Tỳ kheo, cũng không phải ông bị vua A Dục là Ma Sẩn Đà thỉnh mời làm A Xà Lê(14). Trước đó ông cũng đã theo tăng chúng đến tu ở núi Chế Đa. Ông cũng từng phụng mệnh vua A Dục đi đến Ma Ê Bà Mạt Đà La (nay là Mại Sách Nhĩ), và ông cũng đã cùng các vị như Mạt Lan Đề cả thảy tám vị đại đức được phái đến các địa phương để hoằng hóa Phật pháp. Như vậy, ông không phải là người trái nghịch thánh giáo.

- Đại Thiên Ngũ Sự.

Đại Thiên Ngũ Sự là trọng điểm mà Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ công khai tranh luận một cách quyết liệt. Ngay vào thời vua A Dục nó được tranh luận một cách minh xác. Đại khái, Đại Thiên là nhân vật ra đời sau Phật nhập diệt khoảng từ trăm năm đến hai trăm năm, thì xảy ra chuyện Đại Chúng Bộ tôn trọng “Ngũ Sự”. Do vì Ngũ Sự có liên quan đến Đại Thiên, nhưng không hẳn Đại Thiên là chủ sự. Nhân vấn đề tranh luận “Đại Thiên Ngũ Sự” rồi cho rằng Đại Thiên xuất hiện sau Phật nhập diệt hai trăm năm. Thiết tưởng điều trên chỉ là truyền nhầm.

- Sao gọi là Đại Thiên Ngũ Sự?

Đó là năm việc liên quan đến thánh cảnh của thân tâm A la hán. Luận Đại Tỳ Bà Sa quyển 99(15) của Hữu Bộ nói: “Đại Thiên tự mình chưa chứng quả A la hán, nhưng nói là mình đã chứng A la hán quả. A la hán là người đã ly dục, nhưng Đại Thiên đêm ngủ vẫn còn bị mộng tinh, đệ tử được ông ký biệt là đã chứng quả, nhưng bản thân đệ tử chưa từng tự biết chứng quả gì, nên vẫn cứ nghi hoặc Lý đán, A la hán và vị luôn sống an vui giải thoát, nhưng Đại Thiên khi đêm đến thường hô lớn khổ quá, khổ quá. Đem năm việc trên ra lượng định, biết là Đại Thiên vọng ngôn”.

Theo Hữu Bộ, thì năm việc ấy là:

1. Đại Thiên vì tư duy bất chính nên mới thoát thất bất tịnh (mộng tinh).

2. Đại Thiên vì muốn nâng đỡ đệ tử mình mà loạn tác ký biệt, nói là đệ tử đã chứng bốn thánh quả Sa Môn.

3. La hán là người đã chứng đắc vô lậu, dứt đoạn tất cả mọi nghi hoặc. Vậy sao lại nói quả vị La Hán còn nghi hoặc?

4. La hán là người đã chứng đắc thánh huệ; tại sao lại nói tự mình không biết là đã chứng quả La hán hay chưa?

5. Thánh đạo vô lâu, vậy lý đáng phải y vào gia hạnh vị mà hiển hiện, sao lai còn than khổ quá, khổ quá, như thế làm sao sinh khởi được nhân của thánh đạo giải thoát? Như vậy đủ thấy những điều vừa nêu nói lên sự vọng ngữ của Đại Thiên.

Đã vậy, Đại Thiên còn đem ngũ sự do ông xướng xuất biên thành một bài, và hướng về chúng đệ tử tuyên dương một cách sâu rộng: “Dư sở dục, vô tri, do dự tha linh nhập, đạo nhân thinh cố khởi, Thị danh chơn Phật Giáo”.

- Ngũ sự không là vọng ngôn.

- Lý do việc được Đại Thiên đề ra Ngũ Sự:

1. “Dự sở dụ”, bậc A la hán tuy không còn bị phiền não về dâm dục, nhưng vẫn bị “lậu thất bất tịnh”, tức có ác ma lấy vật bất tịnh định đặt vào y của La hán.

2. “Vô Tri”, vô tri là không biết có nhiễm ô và không nhiễm ô. Bậc La hán mà chưa đoạn tận được bất nhiễm ô, thì đó là vô tri.

3. “Do dự”, nghi có hai thứ là xứ và phi xứ sẽ trình bày riêng. Bậc La hán chưa đoạn tận (dứt sạch) được nghi hoặc về xứ và phi xứ, thì tuy là bậc thánh Độc giác nhưng vẫn có cái “hoặc” này.

4. “Tha linh nhập”, bậc La hán cũng phải dựa vào ký biệt của người khác, mới biết được mình là La hán, chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất là người có trí tuệ bậc nhất, ngài Mục Kiền Liên có thần thông bậc nhất, nhưng cũng phải dựa vào sự thọ ký của đức Phật mới biết được mình đã giải thoát.

5. “Đạo nhân thinh cố khởi”, chí thành xướng niệm khổ quá, thì thánh đạo mới hiện khởi, “khổ” được nói ở đây với”khổ” trong tứ thánh đế có liên quan với nhau. Quán khổ, không, vô thường, vô ngã, thì đó là thánh đạo.

Về bản chất của “Ngũ Sự” mà nói, thì ngũ sự khó mà luận rằng đó là vọng ngôn để có thể loại bỏ. Bởi khi nói La hán là bậc ly dục, đó là nói về tâm lý. Nhưng về mặt sinh lý chưa hẳn là khác với người phàm, huống nữa là vấn đề di thất bất tịnh. Vì có lúc là mộng di, có lúc không mộng vẫn cứ “di” ; hoặc có vị do thân bệnh mà “di”. Việc di tinh của người nam giống như chuyện nguyệt tín của người nữ mà thôi.

Thời Phật tại thế có vị nam La hán nhân mắc bệnh phong khiến “dương cử”, phải tìm đến dâm nữ giải quyết (trị bệnh). Cũng có vị La hán ni vẫn còn nguyệt tín nên phải đến hồ nước dùng vải bố mà rửa. Nếu căn cứ theo giới luật nguyên thỉ để suy luận, thì năm việc được Đại Thiên đưa ra, không có việc nào là không lập thành. Chi do các vị luận sư của Hữu bộ không nghiên cứu một cách thực tế nên sinh ra việc lấy người bỏ lời (dĩ nhân phế ngôn). Chuộng cái giống mình, công kích cái khác mình, và như vậy mà kết luận Ngũ Sự là vọng ngôn e không mấy thuyết phục.

Vả lại, “Đại Thiên Ngũ Sự” cũng không hẳn là do Đại Thiên sáng tác một cách độc lập, trong bộ “Luận Sư” của Nam truyền(16) cũng có truyền về Ngũ Sự. Trong luận thuyết của ngài Tam Tạng Chơn Đế của Bắc truyền và của Tây Tạng cũng có nói đến Ngũ Sự, nhưng chú thích không giống nhau. Thời gian gần đây các nhà học giả thấy rằng Ngũ Sự nói chung, các bộ thuộc Đại Chúng Bộ đều có nói đến; Đại Thiên chẳng qua chỉ là người đem Ngũ Sự kết tập lại thành một loại, rồi dùng kệ tụng để trình bày.

Nghiên cứu kỹ, thì quả vị La hán quả đúng là người phi thường mới có thể vượt qua (chứng đắc). Nhưng đời sau lấy cảnh giới lý tưởng của La hán biến thành vấn đề cao siêu không dễ gì mong đạt tới được; tương tự như việc dương cao Bộ phái trong lúc hình thành, thẩm sát các vị La hán thời Phật tại thế, chưa hẳn quí ngài đạt đến trình độ cao siêu như vậy.


(1) Đại Chánh tạng-27, cuối trang 511.

(2) Sắc dụ, sắc lệnh.

(3) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 684.

(4) Đại Chánh tạng-24, cuối trang 684 đến đầu trang 685.

(5) “Ấn Độ Phật Giáo”, chương 5, tiết 3, trang 95.

(6) “Ấn Độ Phật Giáo”, chương 5, tiết 3, trang 95.

(7) ) “Thập Bát Bộ Luận”, Đại Chánh tạng-49, đầu trang 18, thì cho là một trăm mười sáu năm; “Thiện Kiến Luận” quyển I - Đại Chánh tạng-24, giữa trang 678.

(8) “Thập Bát Bộ Luận”, Đại Chánh Tạng-49, đầu trang 18, thì cho là một ttrăm mười sáu năm; “Thiện Kiến Luận” quyển I-Đại Chánh Tạng-24, giữa trang 678.

(9) Đại Chánh Tạng-51, giữa trang 886.

(10) Đại Chánh Tạng-51, trang 886

(11) Đại Chánh Tạng-2, đầu trang 115 đến giữa trang 115.

(11) Đại Chánh Tạng-2, đầu trang 796.

(12) Đại Chánh Tạng-51, giữa trang 886.

(13) Đại Chánh Tạng-27, giữa trang 510 đến giữa trang 511.

(14) Luật Thiên Kiến - quyển 2, Đại Chánh Tạng-24, đầu trang 682.

(14) A Xà Lê có nghĩa là Quĩ phạm sư - người thầy mẫu mực khuôn phép.

(15) Đại Chánh Tạng-27, từ giữa trang đến cuối trang 511.

(16) Nam truyền Đại Chánh tạng Kinh quyển 57, từ trang 221-258.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2020(Xem: 5053)
Xã hội tự do của chúng ta có các trường Đại học là nơi phản ánh xã hội và sản xuất những đổi mới. Họ là nơi chuyển giao kiến thức và tạo ra kiến thức. Nhưng họ cũng là nơi quan tâm đến sự phát triển của mỗi cá nhân. Đặc biệt là điểm cuối cùng phải được cân nhắc mạnh hơn khi đối mặt với số hóa ngày hôm nay.
06/01/2020(Xem: 7585)
Hình 1: Từ trái sang, Ngài Phó Thủ tướng Chính phủ Singapore, Vương Thụy Kiệt đã tham dự buổi lễ Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội Phật giáo Cư sĩ Lâm Singapore. Ảnh TNP: Jason Quah Nhân Kỷ niệm Ngày Phật Thành đạo 8/12/Kỷ Hợi (02/01/2020), tại địa chỉ Kim Yam Road, Singapore, một trong những tổ chức từ thiện Phật giáo Cư sĩ Lâm Singapore (The Singapore Buddhist Lodge - SBL; 新加坡佛教居士林) đã kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội, Khánh thành Chính điện mới, khai quang kim thân Phật tượng, với sự hiện diện của hàng nghìn người gồm các vị chức sắc đa tôn giáo, lãnh đạo chính phủ và khách quốc tế Hoa Kỳ, Trung Quốc và Indonesia.
22/03/2019(Xem: 6278)
Phật giáo là tên gọi giáo pháp của Đức Phật Cồ-Đàm, thường được các tín đồ gọi là Phật pháp. Được thành lập bởi Đức Phật Thích Ca (560-480 TTL) ở miền Bắc Ấn Độ, sau đó được Hoàng đế A Dục chấp nhận là quốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phương và cuối cùng trở thành tôn giáo có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
07/09/2018(Xem: 7762)
Theo truyền thống Đại thừa, một ngàn vị Phật sẽ giáng thế trong thời kiếp may mắn này là điển hình của Hóa thân tối thượng (mchog-gi sprul-sku, thể dạng của các hóa thân tối thượng). Mỗi một vị Phật trong một ngàn vị Phật đã thành tựu giác ngộ từ lâu. Khi một vị Phật thị hiện trong thời kiếp này thì mỗi vị sẽ đồng thời hóa thân ở Nam Thiệm Bộ Châu (Southern Continent) trong mỗi một tỷ hệ thống thế giới trong vũ trụ của chúng ta, đồng thời thực hiện mười hai công hạnh giác ngộ (mdzad-pa bcu-gnyid) của một vị Phật ở nơi đó.
01/08/2018(Xem: 12812)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
14/07/2018(Xem: 8624)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật. Nay trên trang website của nước Ấn Độ thống kê Phật giáo chỉ có 0,7 % của dân số Ấn Độ. Quý vị có thể tham khảo trang nhà nước Ấn Độ theo đường nối kết bên dưới.
21/03/2018(Xem: 17499)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
02/02/2018(Xem: 8716)
Rắc Rối Về Phật Giáo Của Bà San Suu Kyi. "Aung San Suu Kyi’ s Buddhism Problem” Tại sao biểu tượng dân chủ của Miến Điện lại không lên tiếng bênh vực các sắc dân thiểu số và chống lại chủ nghĩa quốc gia, tinh thần kỳ thị chủng tộc, bài ngoại và thỉnh thoảng bạo động của tín đồ Phật Giáo chiếm đa số trên đất nước Miến Điện? (Bài viết của William McGowan đăng trên tạp chí Foreign Policy ngày 17/9/2012) Suốt đoạn đường đấu tranh lâu dài chống lại các ông tướng của Miến Điện, Bà Aung San Suy Kyi – biểu tượng của nền dân chủ- phần lớn dựa vào tinh thần Phật Giáo. Bà đã tán dương một tôn giáo đã giúp bà tìm thấy tự do ở trong tâm tưởng suốt 15 năm bị quản thúc tại gia và nói rằng giáo lý, chẳng hạn như “bao dung” (loving kindness) có thể giúp
01/01/2018(Xem: 42412)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 9653)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]